Bản án 111/2019/HS-ST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 121/2019/HSST ngày 21/5/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2019/QĐXXST-HS ngày 21/5/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Hoàng S; Sinh năm: 1983; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; HKTT: Số 14, H, phường H, quận H, thành phố H; Nơi cư trú: P.202/D1, tập thể N, phường P, quận H, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Phạm Văn C (Đã chết); Con bà: Hoàng Thị N; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không; Danh bản số 210, lập ngày 29/3/2019, tại Công an quận Nam Từ Liêm; Bị cáo bị bắt quả tang ngày 18/3/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 10 phút ngày 18/3/2019, tổ công tác Công an phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ tại ngõ 5 đường L, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội phát hiện Phạm Hoàng S có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, phát hiện trên người S có 01 gói ma túy. Tổ công tác Công an phường Cầu Diễn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải S cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Cầu Diễn để điều tra làm rõ. Vật chứng thu giữ của S gồm có: 01 túi nilông bên trong chứa hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy và 01 điện thoại Mobell M289.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 15 giờ ngày 18/3/2019, Phạm Hoàng S nhận được điện thoại của bạn xã hội tên là H (chưa rõ nhân thân lai lịch) rủ S mang ma túy đá đến nhà nghỉ A ở số 24 ngõ 5, đường L, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để cùng sử dụng. Đến 16 giờ cùng ngày, S đi đến khu vực chợ N thuộc phường P, quận H, thành phố H mua của người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) 01 gói ma túy đá với giá 350.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm năm mươi nghìn đồng). S cất giấu ma túy trong người và đi đến nhà nghỉ A để sử dụng. Khi S đi đến ngõ 5 đường L, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, thì bị tổ công tác Công an phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Ti Cơ quan điều tra Phạm Hoàng S khai nhận hànhvi phạm tội như đã nêu trên.

Bn kết luận giám định số: 1833/KLGĐ-PC09 ngày 28 tháng 3 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,508 gam”.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho S tại khu vực chợ N thuộc phường P, quận H, thành phố H và đối tượng H (người rủ S mang ma túy đến nhà nghỉ A để cùng sử dụng theo lời khai của S). Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của những người trên. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra không đề cập xử lý.

Bản Cáo trạng số 137/CT-VKS-NTL ngày 20/5/2019 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Phạm Hoàng S về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015.

Điu luật quy định:

“1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Tại phiên tòa:

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đi diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và kết luận giữ quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Phạm Hoàng S về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về dân sự: Không; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy vật cấm tàng trữ là: 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Phạm Hoàng S và giám định viên; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell M289, là phương tiện phạm tội của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Hồi 19 giờ 10 phút ngày 18/3/2019, tại ngõ 5 đường L, phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Phạm Hoàng S đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,508 gam để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Cầu Diễn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo S đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm những quy định của Nhà Nước về chế độ quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý cất giấu ma túy để sử dụng. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ 0,508 gam Methamphetamine, căn cứ vào nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo S từ 12 tháng đến 15 tháng tù, là phù hợpvới tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo gây ra.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, là có căn cứ.

[7] Về dân sự: Không.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy vật cấm tàng trữ là: 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Phạm Hoàng S và giám định viên; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell M289, là phương tiện phạm tội của bị cáo, như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, là có căn cứ.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Về án phí: Bị cáo S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Hoàng S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Phạm Hoàng S 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/3/2019.

Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mép dán có chữ ký của Phạm Hoàng S và giám định viên; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell M289 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng số: 138 ngày 22/5/2019, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).

n cứ vào Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Về án phí: Bị cáo S phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 31/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;