Bản án 111/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 109/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 384/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hồng T, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1990; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú + chỗ ở: khu 11, xã P, huyện P, tỉnh P; nghề nghiệp: Lao động tự do;trình độ văn hóa: Lớp 9/12;dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;con ông Nguyễn Ngọc S (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim L; Họ tên vợ: Nguyễn Thị Pg; có 02 con Nguyễn Bảo T và Nguyễn Bảo Lg;tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: - Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2012/HSST ngày 18/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh P, xử phạt 18 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2012; buộc T phải bồi thường cho anh Nguyễn Quang M số tiền 4.100.000 đồng (Bốn triệu một trăm nghìn đồng) và phải chịu 405.000 đồng (Bốn trăm linh năm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nguyễn Hồng T ra trại ngày 13/9/2013. Tđã nộp án phí vào ngày 29/03/2013; Đối với số tiền bồi thường dân sự là 4.100.000 đồng đến nay đã hết thời hiệu thi hành án và gia đình ánh Nguyễn Quang M không yêu cầu bồi thường;bị cáo bị bắt và tạm giữ từ ngày 07/6/2019 đến ngày 13/6/2019 áp dụng biện pháp ngăn chặn sang “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện đang tại ngoại tại xã P, huyện P, tỉnh P. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 11 giờ 15 phút ngày 07/6/2019 tại tổ 21, khu Mộ Thượng, phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, tổ công tác của Công an phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Hồng T – sinh năm 1990, có hộ khẩu thường trú tại: khu 11, xã P, huyện P, tỉnh P đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu đen bên trong có 01 gói giấy mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng và T tự khai nhận đó là gói ma túy đá của T mục đích để sử dụng cho bản thân; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu đen đã cũ, số Imei 359623092388269 và 359623092388277, kèm sim số 0988930289 và 0859080289.

Tổ công tác của Công an phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hồng T, tiến hành niêm phong vật chứng là ma túy vào 01 bì giấy theo quy định và chuyển toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì để giải quyết theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì ra Quyết định trưng cầu giám định đối với vật chứng là ma túy đã thu giữ. Tại Kết luận giám định số 693/KLGĐ ngày 10/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

+ Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng được chứa trong gói giấy có mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, bên ngoài gói giấy được gói bằng nilon màu đen,gửi đến giám định là ma túy; có khối lượng là: 0,477 gam, loại Methamphetamine.

* Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, số thứ tự: 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ”.

Hoàn trả lại 0,373 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng là mẫu vật còn lại sau khi đã giám định cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định.

Ti Cơ quan điều tra, Nguyễn Hồng T khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 10 giờ ngày 07/6/2019, Nguyễn Hồng T đi xe ôm của một người không quen biết từ khu vực ngã ba Then thuộc xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ xuống khu vực đường Du Lịch thuộc phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đến nơi, Txuống xe và đi bộ được một đoạn thì gặp một người đàn ông không quen biết, không rõ địa chỉ ở đâu. T hỏi mua của người đàn ông được 01 gói ma túy đá gói bằng túi nilon màu đen bên ngoài, bên trong có 01 gói giấy mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng với giá 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng). Sau đó, T cầm gói ma túy đi tìm nơi sử dụng thì bị Công an phường Bạch Hạc bắt quả tang như đã nêu trên.

Đi với người bán ma túy cho Thanh, ngoài lời khai của T, không có tài liệu nào khác. Do vậy, không xác định được người đàn ông bán ma túy cho T như Tđã khai và nguồn gốc ma túy của Nguyễn Hồng T.

Ti cáo trạng số 118/CT-VKS-VT ngày 05 tháng 8 năm 2019. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đã truy tố bị cáo Nguyễn Hồng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo khai nhận, bị cáo tàng trữ 0,477 gam ma túy, loại Methamphetamine. Khi bị bắt ngày 07/6/2019 tại tổ 21, khu Mộ Thượng, phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ là nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo không có ý kiến gì đối với cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì.

Ti phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì đã giữ nguyên quan điểm truy tố của mình và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù. Bị cáo được khấu trừ 6 ngày tạm giữ. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng và án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi cấu thành tội phạm của bị cáo:

Hi 11 giờ 15 phút ngày 07/6/2019 tại tổ 21, khu Mộ Thượng, phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Hồng T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,477 gam ma túy Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác của Công an phường Bạch Hạc phát hiện và bắt quả tang. Do vậy, Nguyễn Hồng Thanh phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với hành vi tàng trữ 0,477 gam Methamphetamine.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lí của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an xã hội.

Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực pháp lí và năng lực hành vi hình sự.

Ti phạm và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hồng Thanh được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự:

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 đến 05 năm:

………………….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, vì vậy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội và đáp ứng yều cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. Tuy nhiên trước khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu đã 01 lần bị kết án nhưng đã được xóa án tích.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đó là ông ngoại bị cáo được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Quá trình điều tra xác định bị cáo không có tài sản gì có giá trị ngoài 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu đen đã cũ, số Imei 359623092388269 và 359623092388277. Cơ quan điều tra thu giữ khi bắt quả tang, không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước.

[4]. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đi với 01 bì niêm phong có số 693/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn lại sau giám định 0,373 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định là vật chứng của vụ án, là vật cấm tàng trữ lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu đen đã cũ, số Imei 359623092388269 và 359623092388277, kèm sim số 0988930289 và 0859080289 trong máy là của Nguyễn Hồng T dùng để liên lạc hàng ngày. Tịch thu tiêu hủy 02 sim số điện thoại, tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động.

Đi với người đã bán ma túy cho T, do T không biết rõ nhân thân, địa chỉ của người này, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ, vì vậy không xác định được nguồn gốc số ma túy của T xét thấy là phù hợp.

[5].Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm c Khoản 2 Điều 106 BLTTHS;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

túy”.

[1]. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma Xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng T 15 (mười lăm) tháng tù. Khấu trừ 06 (sáu) ngày tạm giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 14 tháng 24 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Về hình phạt bổ sung: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ màu đen đã cũ, số Imei 359623092388269 và 359623092388277.

[2].Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 bì giấy niêm phong số 693/KLGĐ ngày 10/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ trong đó có chứa 0,373 gam chất chất rắn dạng tinh thể màu trắng loại Methamphetamine cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định;

+ 02 sim điện thoại số 0988930289 và 0859080289.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2019).

[3].Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hồng T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Hồng T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;