Bản án 111/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 21/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 90/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị L, sinh ngày 12 tháng 4 năm 1993 tại P; đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ dân phố C, thị trấn M, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh P và bà Phan Thị T; chồng là Nguyễn Đình T, sinh năm 1992; có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt tạm giữ ngày 28/3/2019, tạm giam ngày 03/4/2019; có mặt.

2. Nguyễn Đình T, sinh ngày 10 tháng 01 năm 1992 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ dân phố C, thị trấn M, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T và bà Lê Thị T; vợ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1993; có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: 02 tiền án đã được xóa án tích: Án số 314/2009/HSST ngày 30/10/2009, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; án số 34/2012/HSPT ngày 19/3/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 06 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích; bị bắt tạm giữ ngày 28/3/2019, tạm giam ngày 03/4/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 27/3/2019, Công an phường Hồ Nam làm nhiệm vụ tuần tra trên địa bàn, khi đi đến khu vực trước cửa nhà số 8/111 C, phường H, quận L, H phát hiện Nguyễn Đình T điều khiển xe mô tô chở phía sau Nguyễn Thị L có biểu hiện phạm tội về ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện, thu giữ tại lòng bàn tay phải của L 01 bọc giấy vệ sinh bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa 01 cục chất màu trắng, nghi là ma túy. Ngoài ra còn thu giữ của T và L 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 16F8-4073, 01 sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Nguyễn Đình T, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị L, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Đình T, 01 túi xách màu đỏ, 01 bật lửa gas và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 110i. Công an đã dẫn giải T và L cùng vật chứng về trụ sở Công an phường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 120/KLGĐ(Đ6) ngày 30/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 01 túi nilon thu giữ của Nguyễn Thị L, có khối lượng 3,0996 (ba phẩy không chín chín sáu) gam, là Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình T khai: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 27/3/2019, T điều khiển xe máy chở L đi từ nhà sang khu vực nội thành Hải Phòng với mục đích đi mua điện thoại. Khi đi đến chắn tàu T, quận L, H, L xuống xe đi bộ vào trong khu vực đường tàu và bảo T đi sang chắn tàu C đợi. Do biết L nghiện ma túy nên T đã đoán L đi mua Heroine để sử dụng. L đi vào khu vực đường tàu khoảng 100m rồi rẽ vào một ngõ nhỏ, gặp và mua của một nữ giới không quen biết 3.600.000 đồng ma túy. Nữ giới đưa cho L 01 túi nilon bên trong chứa 01 cục chất Heroine và mảnh giấy vệ sinh để bọc bên ngoài túi nilon. L cầm số ma túy vừa mua được ở tay phải, đi bộ ra chỗ T đứng đợi. T hỏi L đi đâu, L trả lời đã lấy được “đồ” rồi, lúc này T hiểu L đã mua được Heroine. T điều khiển xe chở L đi ăn cơm tại quán cơm ở đường Tô Hiệu. L không nói cho T biết mình mua Heroine của ai, mua hết bao nhiêu tiền, chỉ rủ T đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Sau đó, T điều khiển xe chở L, đến khu vực trước cửa nhà số 8/111 C thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ cùng vật chứng.

Đối với nữ giới đã bán ma túy cho Nguyễn Thị L ngày 27/3/2019 do không xác định được lai lịch, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra, xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 16F8-4073 thu giữ khi bắt giữ Nguyễn Đình T, do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục lưu giữ để điều tra, xử lý sau.

Tại Cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 18 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L mức án từ 42 tháng đến 48 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Các bị cáo đều không có thu nhập và tài sản riêng nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong lượng ma túy còn lại cùng vỏ bao bì sau giám định và 01 gói giấy vệ sinh màu trắng, 01 bật lửa gas và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 110i (đã hỏng), 01 túi xách màu đỏ. Trả lại cho bị cáo L 01 sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Nguyễn Đình T, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị L; cho bị cáo T 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Đình T.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng, báo cáo bắt giữ, tang vật thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào hồi 10 giờ 45 phút ngày 27/3/2019, tại khu vực trước cửa nhà số 8/111 C, phường H, quận L, H, các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình T đã có hành vi cất giữ trái phép 3,0996 gam Heroine với mục đích sử dụng bị bắt quả tang. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình T đồng phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy, làm suy thoái đạo đức lối sống và là nguyên nhân làm phát sinh những tội phạm khác gây mất trật tự xã hội.

Đánh giá vai trò, động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, bị cáo L là người trực tiếp thực hiện tội phạm, bị cáo T là người giúp sức, tạo điều kiện cho bị cáo L thực hiện tội phạm. Nên bị cáo L chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo T.

Về nhân thân bị cáo Nguyễn Thị L chưa có tiền án, tiền sự nhưng bản thân là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo Nguyễn Đình T có 02 tiền án đã được xóa án tích nhưng bị cáo T không lấy đó làm bài học, để thỏa mãn nhu cầu bản thân bị cáo tiếp tục thực hiện tội phạm. Bản thân các bị cáo cũng nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý tàng trữ để sử dụng. Do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, bắt các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng các bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý Công an thu giữ của bị cáo L sau khi lấy đi giám định, lượng còn lại và 01 túi xách màu đỏ, 01 bật lửa gas và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 110i (bị hỏng), xét là vật cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với 01 sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Nguyễn Đình T, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị L, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Đình T. Xét là giấy tờ cá nhân của bị cáo L và T, không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo L, T.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị L 42 (bốn hai) tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 28 tháng 3 năm 2019.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình T 42 (bốn hai) tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 28 tháng 3 năm 2019.

Về xử lý tang vật:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong lượng ma túy còn lại cùng vỏ bao bì sau giám định và 01 gói giấy vệ sinh màu trắng; 01 túi xách màu đỏ, 01 bật lửa gas và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 110i (đã hỏng).

Trả lại cho các bị cáo Nguyễn Thị L 01 sổ hộ khẩu mang tên chủ hộ Nguyễn Đình T, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị L, cho Nguyễn Đình T 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Đình T.

(Theo biên bản giao, nhận tài sản, vật chứng ngày 18 tháng 7 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình T, mỗi người phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Thị L và Nguyễn Đình T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 21/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;