Bản án 111/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 18 và 19 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 106/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Phước An K (Tên gọi khác: R); sinh ngày: 20/3/1994 tại Đà Nẵng; Nơi ĐKHKTT: Tổ 24 phường X, quận T, thành phố Đà Nẵng; Chỗ ở: Kiệt 113 đường P, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1966 và bà Nguyễn Thị Kim A sinh năm: 1970; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam ngày 27/7/2019, có mặt tại phiên tòa.

2. Bùi Đức L (Tên gọi khác: Không); sinh ngày: 13/10/1991 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: 76 N, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Đức H, sinh năm: 1957 và bà Huỳnh Thị N (c); Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ hai; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

Ngày 03/5/2013, bị Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngày 28/7/2015, bị Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng.

Ngày 29/11/2015, bị Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xử phạt 18 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong ngày 2/01/2017.

Bị cáo bị tạm giam ngày 27/7/2019, có mặt tại phiên tòa.

3. Bùi Đức T (Tên gọi khác: Không); sinh ngày: 14/7/1990 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: 74 N, tổ 30 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Đức N, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1967; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam ngày 27/7/2019, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Nguyễn Thị Kim A, sinh năm: 1970. Địa chỉ: Kiệt 113 đường P, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

Ông Nguyễn Ngọc P, sinh năm: 1989. Địa chỉ: 228/2 C, quận N, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

Người chứng kiến:

Ông Đỗ Vĩnh L, sinh năm: 1962. Địa chỉ: 53 T, phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

Ông Nguyễn Khắc S, sinh năm: 1983. Địa chỉ: Tổ 46 phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ, ngày 27/7/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên L và T bàn bạc, thống nhất mua ma túy đá về để sử dụng. L sử dụng số điện thoại 0935.286.497 gọi cho Nguyễn Phước An K qua số 0905.605.194 để hỏi mua 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) ma túy đá. K đồng ý và giao dịch tại khu vực bùng binh đường X - Đ và T, thành phố Đà Nẵng. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, L điều khiển xe mô tô Sirius màu vàng đen trắng biển kiểm soát 43P1 – 6963 chở T đến điểm hẹn. T đưa tiền cho K và nhận lại 01 gói ni lông chứa ma túy đá. T đã đưa cho K 500.000 đồng, trong đó có 200.000 đồng là tiền mua ma túy đá mà T nợ trước đó. Sau đó, T cất giấu trong người và cả hai quay về tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đi đến tại khu vực ngã tư đường Y – N thuộc phường H, quận H, thành phố Đà Nẵng, Tổ công tác 911 Công an thành phố Đà Nẵng phát hiện, bắt quả tang Bùi Đức T và Bùi Đức L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ của T và L gồm:

- 01 gói ni lông màu trắng, được hàn kín, kích thước khoảng (03 x 01)cm, bên trong tinh thể màu trắng, được niêm phong, ký hiệu “A” (thu giữ trong tay của T).

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen trắng, biển kiểm soát 43P1 – 6963, số khung 327178, số máy 327231 (thu giữ của L).

- 01 điện thoại di động màu đen, có dòng chữ AQUOS, số Imei: 356600051629043 có chứa sim số: 0935286497 (thu giữ của L).

- 01 điện thoại di động màu xanh đen, có dòng chữ OPPO, số Imei1: 868573024486216, Imei2: 868573024486208 có chứa sim số: 0903248277 (thu giữ của T).

Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, tại khu vực bùng binh đường 3/2 và đường N, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Phước An K đang điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, màu xanh bạc, biển kiểm soát 43H1-138.27, Công an yêu cầu dừng phương tiện kiểm tra đã phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Phước An K đang tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ của K gồm:

- 01 khẩu trang màu trắng xám bên trong có chứa 01 gói ni lông hàn kín, kích thước (03 x 01)cm, chứa tinh thể màu trắng, được niêm phong, ký hiệu “B”.

- 01 điện thoại di động màu xám, có dòng chữ Iphone, số Imei: 355424075900699 có chứa sim số 0905605194.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh, biển kiểm soát 43H1-138.27, số khung RLCOG0601Y079921 (đã trả lại cho chủ sở hữu).

- Số tiền 5.000.000 đồng.

Theo bản kết luận giám định số: 221/GĐ-MT ngày 01/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Tinh thể màu trắng trong gói ni lông, ký hiệu A và B gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng mẫu tinh thể A: 0,336 gam; B: 0,297 gam. Hoàn trả đối tượng giám định gồm: 0,224 gam mẫu A; 0,175 gam mẫu B và toàn bộ vỏ bao gói.

Tổng khối lượng ma túy là 0,633 gam ma túy loại Methamphetamine.

Ngoài lần thực hiện hành vi trên, qua quá trình điều tra, lời khai của Nguyễn Phước An K, Bùi Đức T, Bùi Đức L và các chứng cứ khác xác định hành vi của các bị cáo như sau: Để có tiền tiêu xài cá nhân và ma túy sử dụng, Nguyễn Phước An K tham gia vào việc mua bán trái phép chất ma túy từ khoảng giữa tháng 6/2019. Nguồn ma túy là do K mua của các thanh niên tên L, U (đều không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) và bán lại cho người nghiện, cụ thể:

Lần 1: Khoảng giữa tháng 6/2019, K bán cho T và L 01 gói ma túy đá với giá 300.000 đồng tại đầu Kiệt 113 P, quận S, thành phố Đà Nẵng. Lần 2: Cách khoảng 1 tuần sau (không nhớ ngày cụ thể), K tiếp tục bán cho T và L 01 gói ma túy đá với giá 300.000 đồng tại địa điểm trên.

Lần 3: Khoảng giữa tháng 7/2019, K tiếp tục bán cho T 01 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng tại địa điểm trên. T đưa cho K số tiền 300.000 đồng và nợ lại 200.000 đồng.

Ngoài ra, K còn bán ma túy cho hai nam thanh niên khác (chưa rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) một gói ma túy giá 300.000 đồng tại khu vực đường M, thành phố Đà Nẵng.

Quá trình mua bán trái phép chất ma túy, K thu lợi bất chính 500.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 15/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo:

Nguyễn Phước An K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Bùi Đức T và Bùi Đức L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo, đề nghị HĐXX:

Áp dụng điểm b, điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Phước An K từ 08 đến 09 năm tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Đức T từ 15 đến 18 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Đức L từ 18 đến 24 tháng tù.

Về xử lý tang vật: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 0,224 gam mẫu A; 0,175 gam mẫu B ma túy và toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau khi giám định.

Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động màu đen, có dòng chữ AQUOS, số Imei: 356600051629043 có chứa sim số: 0935286497; 01 điện thoại di động màu xám, có dòng chữ Iphone, số Imei: 355424075900699 có chứa sim số 0905605194, số tiền có được từ bán ma túy là 800.000 đồng và 200.000 đồng tiền thu lợi bất chính.

Trả lại cho Nguyễn Phước An K số tiền 4.000.000 đồng.

Trả lại cho Bùi Đức T 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen trắng, biển kiểm soát 43P1 – 6963, số khung 327178, số máy 327231 và 01 điện thoại di động màu xanh đen, có dòng chữ OPPO, số Imei1: 868573024486216, Imei2: 868573024486208 có chứa sim số: 0903248277;

Tại phiên tòa, quá trình xét hỏi các bị cáo Nguyễn Phước An K, Bùi Đức L và Bùi Đức T thừa nhận hành vi phạm tội như trong bản cáo trạng đã truy tố các bị cáo.

Bị cáo K và T nói lời nói sau cùng: Sau khi bị tạm giam, các bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo L: Không trình bày lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo Nguyễn Phước An K, Bùi Đức T và Bùi Đức L tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó có cơ sở để xác định: Vào khoảng 21 giờ ngày 27/7/2019, tại ngã tư đường Y – Núi Thành, quận H, thành phố Đà Nẵng, Bùi Đức T và Bùi Đức L có hành vi tàng trữ trái phép 0,336 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng. Số ma túy này do trước đó T và L mua của Nguyễn Phước An K. Hành vi của Bùi Đức T và Bùi Đức L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, tại khu vực bùng binh đường X, phường T, quận H, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Phước An K bị phát hiện đang tàng trữ trái phép 0,279 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để bán. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ tháng 6/2019 đến tháng 07/2019, K còn bán ma túy cho Bùi Đức T và Bùi Đức L 02 lần; bán riêng cho Bùi Đức T 01 lần và bán cho hai nam thanh niên (chưa rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) 01 lần. Nguyễn Phước An K đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy 02 lần trở lên và đối với 02 người trở lên với khối lượng 0,633 gam ma túy, loại Methamphetamine. Hành vi của Nguyễn Phước An K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng truy tố các bị cáo Nguyễn Phước An K, Bùi Đức T và Bùi Đức L là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

[3]Xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo thì thấy:

Nguyễn Phước An K, Bùi Đức L và Bùi Đức T là các đối tượng bị nghiện ma túy. Để có ma túy sử dụng và thu lợi bất chính nên Nguyễn Phước An K đã có hành vi mua ma túy của các thanh niên tên L, U (đều không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) và bán lại cho người nghiện để sử dụng và thu lợi bất chính. K đã 03 lần bán ma túy cho T và L, 01 lần bán cho T và 01 lần bán cho 02 nam thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ.

Do muốn có ma túy sử dụng nên Bùi Đức L và Bùi Đức T đã liên lạc cho Nguyễn Phước An K để mua ma túy để sử dụng. Trong vụ án này T và L cùng thống nhất đi mua ma túy sử dụng chung, L là người trực tiếp liên hệ với K là người bán ma túy để mua, T là người trực tiếp giao dịch và tàng trữ, do đó vai trò của T và L là ngang nhau, cần xét xử các bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của các bị cáo.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý, gây hoang mang, bức xúc trong nhân dân. Do đó, cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt tù thích đáng, nhằm cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]Xét nhân thân của các bị cáo thì thấy:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo K, T và L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên HĐXX sẽ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình. Riêng bị cáo L có nhân thân xấu đã 02 lần bị Tòa án đưa ra xét xử phạt hình phạt tù về tội xâm phạm sở hữu nhưng vẫn không lấy đó làm bài học mà vẫn vi phạm pháp luật do đó HĐXX sẽ xem xét khi áp dụng hình phạt.

Đối với người tên U và L là đối tượng đã bán ma túy cho K và 02 nam thanh niên mua ma túy của K, hiện nay chưa xác định được nhân thân, địa chỉ, lai lịch của đối tượng, Cơ quan CSĐT Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau. [5]Về Xử lý tang vật: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX xử lý như sau:

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh, biển kiểm soát 43H1- 138.27, số khung RLCOG0601Y079921 đứng tên chủ sở hữu là ông Nguyễn Ngọc P, xe này ông P bán lại cho bà Nguyễn Thị Kim A, bà A cho K mượn làm phương tiện đi lại, khi K sử dụng xe này phạm tội thì bà A hoàn toàn không biết nên CQĐT đã trả xe này cho bà A. Bà A không có yêu cầu gì đối với chiếc xe này nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Đối với 0,224 gam mẫu A; 0,175 gam mẫu B ma túy và toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau khi giám định là vật cấm lưu hành, do đó tuyên tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động màu đen, có dòng chữ AQUOS, số Imei: 356600051629043 có chứa sim số: 0935286497 là điện thoại của Bùi Đức L dùng để liên lạc với K để thỏa thuận việc mua ma túy và 01 điện thoại di động màu xám, có dòng chữ Iphone, số Imei: 355424075900699 có chứa sim số 0905605194 của Nguyễn Phước An K sử dụng để bán ma túy nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với số tiền 5.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Phước An K, K khai trong số tiền này có 500.000 đồng là tiền của T mua ma túy ngày 27/7/2019 là 300.000 đồng, trả nợ tiền T mua ma túy còn nợ trước đó là 200.000 đồng; tiền do K bán ma túy cho 02 nam thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ là 300.000 đồng. Do đó HĐXX tuyên tịch thu sung công quỹ số tiền 800.000 đồng là tiền K bán ma túy 03 lần. Ngoài ra, K bán 02 lần ma túy cho T và L thu lợi bất chính mỗi lần là 100.000 đồng nên HĐXX tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính từ việc bán ma túy là 200.000 đồng. Tổng số tiền tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước là 1.000.000 đồng. Số tiền còn lại không liên quan đến việc phạm tội nên hoàn trả lại cho Nguyễn Phước An K số tiền 4.000.000 đồng.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen trắng, biển kiểm soát 43P1 – 6963, số khung 327178, số máy 327231 là tài sản của Bùi Đức T, T tàng trữ trái phép ma túy trong người, chiếc xe này không liên quan đến việc phạm tội, HĐXX tuyên trả lại cho T.

Đối với 01 điện thoại di động màu xanh đen, có dòng chữ OPPO, số Imei1: 868573024486216, Imei2: 868573024486208 có chứa sim số: 0903248277 của Bùi Đức T không liên quan đến việc phạm tội nên tuyên trả lại cho Bùi Đức T.

Những vật chứng trên, hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2019.

Xét những đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu tại phiên tòa hôm nay là có cơ sở, HĐXX chấp nhận. Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

 Bị cáo Nguyễn Phước An K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Các bị cáo Bùi Đức T và Bùi Đức L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm b, điểm c khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Phước An K 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 27/7/2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bùi Đức T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 27/7/2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bùi Đức L 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 27/7/2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 0,224 gam mẫu A; 0,175 gam mẫu B ma túy và toàn bộ vỏ bao gói hoàn lại sau khi giám định.

Tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước:

- 01 điện thoại di động màu đen, có dòng chữ AQUOS, số Imei: 356600051629043 có chứa sim số: 0935286497.

- 01 điện thoại di động màu xám, có dòng chữ Iphone, số Imei: 355424075900699 có chứa sim số 0905605194.

- Số tiền 1.000.000 đồng.

Tuyên trả lại cho Nguyễn Phước An K số tiền 4.000.000 đồng.

Tuyên trả lại cho Bùi Đức T: 01 điện thoại di động màu xanh đen, có dòng chữ OPPO, số Imei1: 868573024486216, Imei2: 868573024486208 có chứa sim số:

0903248277 và 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu vàng đen trắng, biển kiểm soát 43P1 – 6963, số khung 327178, số máy 327231. Những vật chứng trên, hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2019.

Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Phước An K, Bùi Đức T và Bùi Đức L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về thời hạn kháng cáo: Báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;