Bản án 111/2019/HS-ST ngày 11/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 111/2019/HS-ST NGÀY 11/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 11 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 90/2019/TLST-HS ngày 06/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2019/QĐXXST-HS ngày 23/5/2019 đối với bị cáo: 

Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc T; giới tính: Nữ; sinh năm 1982; nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ĐKHKTT: 463/2A Cách Mạng Tháng 8, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: C2/12X1, ấp 3, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: buôn bán; họ tên cha: Nguyễn Văn H (Chết); họ tên mẹ: Danh Thị Kim H, sinh năm 1952; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có chồng tên Phan Quốc C (Chết), hiện sống chung như vợ chồng với Dương Quốc D, sinh năm 1977 và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2017.

Tiền án: Ngày 07/8/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, án số 224/2013/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/4/2014, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số 810/GCN của Giám thị trại giam Thủ Đức, chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm.

Nhân thân: Ngày 17/3/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, án số 55/2015/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/5/2016, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt số 430/GCN của Giám thị trại giam An Phước, đóng án phí hình sự ngày 08/10/2015.

Tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại điều tra, có mặt tại phiên toà.

Bị hại: Ông Đỗ Hoàng K, sinh năm 1996; nơi ĐKHKTT: Ấp Tân Hòa, xã T, huyên M, tỉnh Bến Tre; chỗ ở: Phòng trọ số 01, nhà trọ không số thuộc tổ 9, ấp 5A, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Huỳnh D, sinh năm 1995; nơi ĐKHKTT: Thôn Ngọc Anh, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/12/2018, Nguyễn Thị Ngọc T đón xe mô tô Grab đi từ nhà đến khu nhà trọ không số, tổ 9, ấp 5A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh để tìm bạn tên Khương (không rõ lai lịch). Tại đây,T thấy cửa phòng số 01 của nhà trọ (loại cửa kéo 02) không kéo kín, khoảng cách giữa 02 cánh khoảng 40cm. Lúc này,T dừng lại nhìn vào bên trong phòng thấy anh Đỗ Hoàng K đang nằm ngủ trên sàn nhà, sát tường bên phải, phía dưới cầu thang, đầu anh K hướng ra ngoài cửa và gần bên phải đầu nằm của anh K có để một điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu đen nênT nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại để bán lấy tiền. Để kiểm tra chắc chắn anh K đã ngủ,T dùng hai tay kéo cánh cửa bên phải qua khoảng 10cm, giả vờ gọi “Em, em!” nhưng anh K không trả lời. Biết anh K đã ngủ say,T đi vào bên trong phòng đến chỗ anh K đang ngủ, dùng tay phải lấy điện thoại di động Iphone 7 của anh K. KhiT đang cầm điện thoại trên tay, định quay ra cửa để tẩu thoát thì bị anh Huỳnh D (là bạn ở trọ cùng phòng với anh K) đang ngủ trên gác của phòng trọ phát hiện, tri hô nênT vứt bỏ điện thoại của anh K xuống nền nhà làm anh K thức giấc. Anh K và anh Dũng bắt giữT cùng tang vật giao Công an xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh. Công an tiếp nhận đối tượng cùng vật chứng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang chuyển Công an huyện Bình Chánh điều tra, xử lý.

Căn cứ vào Kết quả định giá tài sản số 41/HĐĐGTTHS-TCKH ngày 09/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh xác định trị giá chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 là 7.012.995 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thì Nguyễn Thị Ngọc T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án nêu trên.

Vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu đen, Cơ quan điều tra đã làm thủ tục giao trả cho bị hại Đỗ Hoàng K.

Tại bản Cáo trạng số 103/CT-VKS ngày 25 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T về tội "Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bị hại ông Đỗ Hoàng K vắng mặt, lời khai tại Cơ quan điều tra thể hiện ông đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì về dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T tại tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 103 – 127); phù hợp với lời khai của bị hại Đỗ Hoàng K (BL: 89 – 99); phù hợp với lời khai của người làm chứng Huỳnh D (BL: 79 -84). Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, thu giữ vật chứng, kết quả định giá tài sản, khám nghiệm hiện trường…cùng các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 11/12/2018, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 có trị giá 7.012.995 đồng của ông Đỗ Hoàng Khang (Theo Kết quả định giá tài sản số 41/HĐĐGTTHS-TCKH ngày 09/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Chánh) tại trước phòng số 01, khu nhà trọ không số, tổ 9, ấp 5A, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh thì bị phát hiện bắt quả tang.

Với những tình tiết được chứng minh trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phồ Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.

[3] Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, mục đích phạm tội là muốn có tiền tiêu xài cho bản thân. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc làm của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật nhưng bản tính tham lam, biếng lười lao động nên bị cáo cố ý phạm tội. Tội phạm bị cáo thực hiện là nguy hại cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, tạo tâm lý hoang mang cho nhân dân. Do đó, khi lượng hình cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân: Tính đến ngày phạm tội bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích, cụ thể: Ngày 07/8/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Án số 224/2013/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/4/2014, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số 810/GCN của Giám thị trại giam Thủ Đức, chưa đóng án phí hình sự sơ thẩm. Do đó, cần áp dụng Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xét xử bị cáo là phù hợp.

[5] Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 17/3/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, án số 55/2015/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/5/2016, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt số 430/GCN của Giám thị trại giam An Phước, đóng án phí hình sự ngày 08/10/2015. Bị cáo liên tiếp thực hiện hành vi phạm tội về nhóm tội xâm phạm sở hữu, điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật bị cáo rất kém, khó cải tạo, giáo dục. Do đó, lần phạm tội này cần có mức án nghiêm, phù hợp với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì mới đủ sức răn đe.

[6] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo và đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản kịp thời thu hồi giao trả cho bị hại. Xét các tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt được quy định tại các Điểm h, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[7] Vật chứng của vụ án: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu đen, Cơ quan điều tra đã làm thủ tục giao trả cho bị hại Đỗ Hoàng K theo Biên bản về việc trả lại đồ vật tài liệu của Công an huyện Bình Chánh được lập vào hồi 09 giờ ngày 31/12/2018. Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Về dân sự: Bị hại Đỗ Hoàng K đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì về dân sự nên không đặt ra giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; các Điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt vào chấp hành án. 

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.  Buộc bị cáo phải chịu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2019/HS-ST ngày 11/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:111/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;