Bản án 111/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 111/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 168/2018/TLST-HNGĐ ngày 17/5/2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 293/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/7/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 175a/2018/QĐ-ST ngày 26/7/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị M, sinh năm 1981

Địa chỉ: Ấp H, xã Đ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Trần Cao Đ, sinh năm 1980

Địa chỉ: ấp H, xã Đ, huyện Thoại Sơn, Tỉnh An Giang.

Nguyên đơn chị M có mặt. Bị đơn anh Đ vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai tại phiên tòa chị Đinh Thị M trình bày:

Chị với anh Trần Cao Đ chung sống với nhau từ năm 2004, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu vợchồng chung sống rất hạnh phúc và có  với nhau 02 con chung. Đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh Trần Cao Đ thường xuyên nhậu nhẹt, mắng chửi, đánh đập và nhiều lúc còn đe dọa giết vợ con. Nhận thấy tình cảm với anh Đ không còn nên chị M quyết định sống ly thân khoảng 5 tháng nay. Nay chị M yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị M xin được ly hôn với anh Trần Cao Đ.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Thị Mỹ T sinh ngày 15/4/2005 và Trần Hoàng Bảo L sinh ngày 19/02/2007 hiện nay đang sống với chị M. Sau ly hôn chị M yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Đinh Thị M vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

* Về phía bị đơn anh Trần Cao Đ: Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho anh Đ nhưng từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay anh Đ vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị M.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn và nuôi con. Bị đơn anh Trần Cao Đ có địa chỉ cư trú tại ấp H, xã Đ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn.

 [2] Bị đơn anh Trần Cao Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ.

 [3] Chị Đinh Thị M và anh Trần Cao Đ chung sống với nhau từ năm 2004, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 03 quyển số 0I/2004 ngày 28/1/2004. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [4] Xét yêu cầu của chị Đinh Thị M, thấy: Vợ chồng chị Đinh Thị M và anh Trần Cao Đ đã sống ly thân khoảng 5 tháng nay. Chị M trình bày rằng từ năm 2015 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh Đ  thường xuyên nhậu nhẹt về nhà mắng chửi, đánh đập và nhiều lúc còn đe dọa giết vợ con. Kể từ khi sống ly thân thì vợ chồng không gặp mặt nhau mà chỉ nói chuyện qua điện thoại, vợ chồng cũng không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Từ khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành thông báo hòa giải nhằm mục đích động viên, hàn gắn nhưng anh Đ vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được hàn gắn quan hệ vợ chồng với chị M để xây dựng hạnh phúc gia đình và chăm sóc con chung. Căn cứ Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa chị M và anh Đ không còn, tình trạng hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đinh Thị M.

 [5] Về quan hệ con chung, thấy: Từ khi sống ly thân cho đến nay cháu Trần Thị Mỹ T và Trần Hoàng Bảo L được chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Mặt khác, cháu T và cháu L cũng có nguyện vọng được sống với chị M sau khi cha mẹ ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ áp dụng Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Trần Thị Mỹ T và Trần Hoàng Bảo L cho chị M tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6] Về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu giải quyết.

 [7] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chị M là nguyên đơn nên phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị M.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị M được ly hôn với anh Trần Cao Đ.

- Về quan hệ con chung: Chị Đinh Thị M được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục Trần Thị Mỹ T sinh ngày 15/4/2005 và Trần Hoàng Bảo L sinh ngày 19/02/2007.

Chị M phải tạo điều kiện cho anh Đ được quyền đến thăm nom con, không ai được ngăn cản.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hay việc cấp dưỡng nuôi con

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết. Tuy nhiên sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị Đinh Thị M và anh Trần Cao Đ phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

2. Về án phí: chị Đinh Thị M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001158 ngày 17/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang nên đã nộp xong.

Chị Đinh Thị M có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Cao Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đ để yêu cầu xem xét phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 111/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:111/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;