TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 111/2017/HSST NGÀY 11/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 8 năm 2017, tại nhà văn hóa khối Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố L; Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 112/2017/HSST ngày 17 tháng 7 năm 2017 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1976 tại tỉnh Bắc Giang;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 193, đường T, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn;
Trú tại: Số 19, đường P, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn;
Trình độ văn hóa: 4/12 . Nghề nghiệp: Không;
Con ông: Nguyễn Hoàng K (đã chết) và bà Đồng Thị N; Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1973;
Con: Có 01 con sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giữ ngày 19/4/2017, tạm giam ngày 22/4/2017 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
2. Hoàng Duy Đ, sinh năm 1991 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn;
Trú tại: Số 40, đường H, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn;
Trình độ văn hóa: 12/12 . Nghề nghiệp: Không;
Con ông: Hoàng Tuyên Đ và bà Vi Thị S. Vợ, con: Chưa có;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giữ ngày 19/4/2017, tạm giam ngày 22/4/2017 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
NHẬN THẤY
Các bị cáo Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 19/4/2017 tại khu vực cổng nhà khách T, đường C, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an thành phố L bắt quả tang Hoàng Duy Đ có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Duy H, trú tại: Số 183, đường T, phường T, thành phố L. Thu giữ của Nguyễn Duy H 01 gói giấy bên trong chứa 05 viên nén màu hồng, thu giữ của Hoàng Duy Đ 500.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia ký hiệu C1 màu đen kèm sim thuê bao.
Căn cứ tài liệu điều tra, khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố L thi hành Lệnh bắt và khám xét khẩn cấp đối với Nguyễn Hoàng H. Kết quả khám xét thu giữ 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng và 01 lọ thủy tinh trên nắp có gắn hai ống hút nhựa; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen kèm theo sim thuê bao và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, kèm theo sim thuê bao.
Ngày 19/4/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã gửi 01 gói giấy bên trong chứa 05 viên nén màu hồng nghi là chất ma túy thu giữ của Nguyễn Duy H và 01 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy thu giữ của Nguyễn Hoàng H đến Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn để trưng cầu giám định.
Tại bản kết luận giám định số 163/KL- PC54, ngày 24/4/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:
- 05 viên nén màu hồng thu giữ của Nguyên Duy H là chất ma túy Methamphetamine có tổng trọng lượng 0,477 gam (đã trừ bì).
- Chất tinh thể màu trắng trong túi nilon thu giữ của Nguyễn Hoàng H là chất ma túy Methamphetamine có tổng trọng lượng 10,170 gam (đã trừ bì).
Tại bản cáo trạng số 114/KSĐT ngày 14 tháng 7 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng H về tội “Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ Luật Hình sự và bị cáo Hoàng Duy Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng H và bị cáo Hoàng Duy Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Nguyễn Hoàng H phạm thêm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 33; Điều 20; Điều 53; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt các bị cáo Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 33; Điều 53; Điều 50; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999. Điểm b khoản 1 Điều 2; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ Luật Hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14. Khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng H từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Hình phạt chung cho cả hai tội đối với bị cáo Nguyễn Hoàng H là từ 48 đến 60 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì các bị cáo không có tài sản.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự. Điểm a, c, đ khoản 2 và khoản 3 Điều 76 Bộ Luật Tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định, 01 lọ thủy tinh trên nắp có gắn 02 ống hút nhựa.
- Tịch thu 500.000 đồng tiền bán ma túy thu giữ của bị cáo Hoàng Duy Đ để sung công quỹ.
- Tịch thu hóa giá sung công quỹ 01 điện thoại NOKIA màu đen thu giữ của Nguyễn Hoàng H và 01 điện thoại NOKIA màu đen ký hiệu C1 thu giữ của Hoàng Duy Đ vì là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hoàng H 01 điện thoại di động IPHONE màu đen vì không liên quan đến hành vi phạm tội.
Về án phí: Buộc các bị cáo phải phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo Hoàng Duy Đ khai:
Bản thân Đ thường sử dụng chất ma túy tổng hợp nên quen Nguyễn Duy H và Nguyễn Hoàng H đều là những đối tượng sử dụng chất ma túy tổng hợp. Ngày 16/4/2017, Đ và Nguyễn Hoàng H cùng nhau sử dụng ma túy; trong lúc sử dụng ma túy, H nói với Đ là H đang có 05 viên ma túy tổng hợp không dùng đến, nếu có ai mua thì nhờ Đ bán hộ, Đ nhận lời. Trưa ngày 19/4/2017, Đ đang làm việc tại quán H. L tại số 40, đường H. V, phường C, thành phố L thì Nguyễn Duy H gọi điện cho Đ hỏi có biết chỗ nào bán ma túy tổng hợp dạng viên nén (thường gọi là ngựa) thì mua hộ 5 viên. Đ đã gọi điện cho Nguyễn Hoàng H nói có khách cần mua 05 viên ma túy tổng hợp, H liền nói giá bán là 100.000 đồng/viên; sau đó H cầm giấy gói 05 viên ma túy tổng hợp từ chỗ ở mang sang quán H. L đưa cho Đ. Sau khi nhận ma túy từ H, Đ gọi điện thoại cho Nguyễn Duy H và hẹn ra cổng nhà khách T để giao dịch mua bán. Đến điểm hẹn, Nguyễn Duy H đưa cho Đ 500.000 đồng, Đ đưa cho H 1 gói giấy bên trong có 05 viên ma túy tổng hợp. Khi Đ và H vừa giao dịch xong thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.
Bị cáo Nguyễn Hoàng H khai:
H quen biết Hoàng Duy Đ do có lần cùng nhau sử dụng ma túy tổng hợp. Khoảng tháng 12/2016 H mua 05 viên ma túy tổng hợp của một người không quen biết tại chợ Đ mục đích để sử dụng. Do H không sử dụng nên đã mang nhờ Đ bán để lấy tiền.
Đối với số ma túy đá Công an đã thu giữ khi khám xét tại nơi ở của H, đây là ma túy do H mua với một người đàn ông không rõ danh tính, địa chỉ tại chợ Đ vào ngày 12/4/2017 với giá 700.000 đồng, H cất giữ để sử dụng dần và không nhằm mục đích bán.
Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của các bị cáo;
XÉT THẤY
Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp nhau, phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; vì vậy có đủ căn cứ để xác định:
Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 19 tháng 4 năm 2017, tại khu vực trước cổng nhà khách T, đường C, phường C, thành phố L tỉnh Lạng Sơn, Hoàng Duy Đ đã bán cho Nguyễn Duy H 05 viên nén ma túy tổng hợp. Kết quả giám định là chất ma túy Methamphetamine có tổng trọng lượng 0,477 gam. Số ma túy này là của Nguyễn Hoàng H nhờ Hoàng Duy Đ bán cho Nguyễn Duy H với giá 500.000 đồng. Ngoài ra tại nơi ở của mình, Nguyễn Hoàng H còn tàng trữ trái phép 10,170 gam chất ma túy Methamphetamine.
Như vậy có đủ căn cứ kết luận: Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Nguyễn Hoàng H phạm thêm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.
Việc truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Hoàng H và hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước; gây mất trật tự an ninh tại địa phương và còn là một trong những nguyên nhân gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, biết việc tàng trữ, mua bán ma túy bị pháp luật cấm nhưng các bị cáo vẫn tàng trữ, mua bán; điều đó thể hiện việc coi thường pháp luật, đi ngược với chương trình hành động phòng chống tệ nạn ma tuý của Nhà nước.
Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.
Đối với Nguyễn Hoàng H là người có 05 viên ma túy đã nhờ Hoàng Duy Đ đem bán; Hoàng Duy Đ biết việc bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn đem bán cho Nguyễn Duy H. Như vậy, Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ là đồng phạm về tội mua bán trái phép chất ma túy, nhưng mang tính giản đơn; các bị cáo không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ, phân công trách nhiệm từng người đồng phạm.
Về nhân thân: Các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự.
Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; vì vậy các bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết có lợi cho người phạm tội:
Bị cáo Nguyễn Hoàng H có bố đẻ là ông Nguyễn Hoàng K là người có công với nước, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngoài phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", bị cáo Nguyễn Hoàng H còn phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" thuộc khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. So với cùng tội danh thì quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 mức khởi điểm và mức cao nhất của khung hình phạt đều nhẹ hơn.
Do bị cáo Nguyễn Hoàng H có 02 tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm p khoản 1 Điều 46 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; vì vậy, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, các yếu tố về nhân thân của bị cáo; điểm b khoản 1 Điều 2; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14. Khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xét thấy chỉ cần xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng H mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đã truy tố đối với tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" cũng đủ giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung:
Tại biên bản xác minh ngày 28/4/2017 của Cơ quan điều tra Công an thành phố L xác định: Các bị cáo Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ không có nghề nghiệp và không có tài sản, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự. Điểm a, c, đ khoản 2 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định và 01 lọ thủy tinh trên nắp có gắn 02 ống hút nhựa.
- Tịch thu 500.000 đồng tiền bán ma túy thu giữ của bị cáo Hoàng Duy Đ để sung công quỹ.
- Tịch thu hóa giá sung công quỹ 01 điện thoại NOKIA màu đen thu giữ của Nguyễn Hoàng H và 01 điện thoại NOKIA màu đen ký hiệu C1 thu giữ của Hoàng Duy Đ, đây là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hoàng H 01 điện thoại di động IPHONE màu đen vì không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Đối với người đã bán ma túy cho Nguyễn Hoàng H, do H không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh xử lý.
Đối với Nguyễn Duy H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,477 gam chất ma túy Methamphetamine để sử dụng, do không đủ trọng lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an thành phố L đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp nên không xem xét.
Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, mức hình phạt đối với các bị cáo và các vấn đề khác đề nghị khi giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử chấp nhận.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Nguyễn Hoàng H phạm tội thêm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;
- Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 33; Điều 20; Điều 53 điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ mỗi bị cáo 02 (hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 33; Điều 50; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999. Điểm b khoản 1 Điều 2; điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14. Khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng H 01 năm 06 tháng (một năm sáu tháng) tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội, bị cáo Nguyễn Hoàng H phải chịu là 03 năm 06 tháng (ba năm sáu tháng) tù.
Thời hạn tù đối với hai bị cáo Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ được tính từ ngày bắt tạm giữ 19/4/2017.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự. Điểm a, c, đ khoản 2 và khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định, 01 lọ thủy tinh trên nắp có gắn 02 ống hút nhựa.
- Tịch thu 500.000 đồng tiền bán ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Duy Đ để sung công quỹ.
- Tịch thu hóa giá sung công quỹ 01 điện thoại NOKIA màu đen thu giữ của Nguyễn Hoàng H, số IMEI1:354877082047005, số IMEI 2: 354877082047013, số thuê bao: 0915.686.118 và 01 điện thoại NOKIA màu đen ký hiệu C1 thu giữ của Hoàng Duy Đ có số IMEI: 357021/04/991113/9 có số thuê bao: 01258880.789.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hoàng H 01 điện thoại di động IPHONE màu đen có số IMEI: 355677073973121.
(Vật chứng hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/7/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L).
(Hiện số tiền này được tạm gửi tại tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố L tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Lạng Sơn theo Ủy nhiệm chi ngày 10/7/2017 của Công an thành phố L).
Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Buộc các bị cáo Nguyễn Hoàng H và Hoàng Duy Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 111/2017/HSST ngày 11/08/2017 tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 111/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về