Bản án 110/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 110/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2020/TLST- HS ngày 13 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hữu Hoàng P, tên gọi khác: B, sinh năm 1994, tại tỉnh Lâm Đồng:

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số nhà 191 đường L, Phường 1, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng (trước đây là số nhà 107B); giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ văn hóa: 07/12; nghề nghiệp: Thợ điện lạnh; con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1967, cư trú tại: phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng và bà Nguyễn Thị Thanh H (đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền án: Không.

- Tiền sự: Ngày 28/02/2020, Nguyễn Hữu Hoàng P bị Công an phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 60/QĐ-XPHC, đã nộp phạt vào ngày 02/6/2020.

- Nhân thân:

+ Ngày 24/4/2012, Nguyễn Hữu Hoàng P bị TAND Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 27/2012/HSST.

+ Ngày 25/12/2015, Nguyễn Hữu Hoàng P bị TAND Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo Bản án số 113/2015/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/12/2017, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt và tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 16/7/2020 cho đến nay. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Cháu Đặng Thùy L, sinh ngày 04/7/2003 Người đại diện hợp pháp của cháu Đặng Thuỳ L: Ông Đặng Văn C, bà Hoàng Thị L, có mối quan hệ là bố, mẹ đẻ.

Nơi cư trú: Số nhà 169 đường N, Phường 2, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 16/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng phối hợp cùng Công an phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng kiểm tra nhà của Nguyễn Hữu Hoàng P, địa chỉ: Lô C3 đường Đ, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng phát hiện dưới nền nhà trong phòng ngủ của P có 02 gói nilon kích thước (4,2 x 7,5)cm có rãnh khép kín cùng vạch kẻ ngang màu đỏ chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng. Nguyễn Hữu Hoàng P khai nhận 02 gói nilon này đều chứa ma túy là của P. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hữu Hoàng P và lập biên bản thu giữ, niêm phong 02 gói nilon nêu trên, tạm giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 bình nhựa, 01 nỏ thủy tinh, 01 ống hút nhựa. Ngoài ra, còn có cháu Đặng Thùy L, sinh ngày 04/7/2003, trú tại số nhà 169 đường N, phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng đang ở nhà cùng với Nguyễn Hữu Hoàng P.

Theo kết luận giám định số 1257/GĐ-PC09 ngày 20/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể đựng trong 02 gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,0391g (hai phẩy không ba chín một gam), loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT : 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 118/CT-VKSBL, ngày 12 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Hữu Hoàng P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Hoàng P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, phạt bị cáo Nguyễn Hữu Hoàng P từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy vật chứng, chứng minh tội phạm, gồm:

+ 02 phong bì niêm phong sau giám định số 1257/2020.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút nhựa, 01 bình thuỷ tinh và 01 nỏ thủy tinh.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp gì với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, xin lỗi gia đình và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm: Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu Hoàng P đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; nội dung Kết luận giám định; biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định và đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Nguyễn Hữu Hoàng P là người nghiện ma túy và có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 16/7/2020 tại Lô C3 đường Đ, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng, Nguyễn Hữu Hoàng P bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý 2,0391g (hai phẩy không ba chín một gam), loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 118/CT-VKSBL, ngày 12 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất và mức độ của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động tàng trữ chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì thái độ xem thường pháp luật, cũng như nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu sử dụng ma tuý cho bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Bị cáo thực hiện tội phạm nghiêm trọng, gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có ông nội là Nguyễn Hữu V được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Phạt bổ sung: Bị cáo là người sử dụng ma tuý nên miễn phạt bổ sung.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau:

Vật chứng, chứng minh tội phạm, tịch thu tiêu hủy, gồm:

+ 02 phong bì niêm phong sau giám định số 1257/2020.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút nhựa, 01 bình thuỷ tinh và 01 nỏ thủy tinh.

[10] Các vấn đề khác:

Quá trình điều tra Nguyễn Hữu Hoàng P khai nhận số ma túy có được là mua từ 01 đối tượng tên L (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) với giá 2.000.000 đồng vào ngày 14/7/2020 tại khu vực cầu Đ, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Sau đó P mang về nhà lấy một ít ra sử dụng, rồi phân chia vào thêm 01 bịch nilon khác có kích thước tương tự, cất giấu trong phòng ngủ cho đến khi bị bắt quả tang. Hiện nay không xác định được nhân thân, lai lịch của L nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, khi có căn cứ để xử lý sau.

Đối với cháu Đặng Thùy L: quá trình điều tra xác định khi bị bắt quả tang đang ở cùng phòng với Nguyễn Hữu Hoàng P nhưng không biết việc bị cáo P tàng trữ trái phép chất ma túy nên việc Cơ quan Cảnh sát điều tra xem xét trách nhiệm hình sự.

[11] Xét đề nghị và luận tội của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[12] Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về ..., án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[13] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu Hoàng P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, phạt bị cáo Nguyễn Hữu Hoàng P, tên gọi khác: B 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/7/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ gồm:

+ 02 phong bì niêm phong sau giám định số 1252/2020.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống hút nhựa, 01 bình thuỷ tinh và 1 nỏ thủy tinh.

Tình trạng vật chứng theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 16/10/2020 giữa Cơ quan Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu Hoàng P phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 110/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;