Bản án 110/2019/HSST ngày 25/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 110/2019/HSST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 123/2019/HSST ngày 13-9-2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 110/QĐXXST, ngày 13-9-2019 đối với các bị cáo:

1. Lò Văn Ch; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 07/9/1999 tại xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: bản P, xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; trình độ học vấn: 7/12; con ông Lò Văn Ng, sinh năm 1975 và bà Lò Thị Kh, sinh năm 1979; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Chưa có; bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2019 cho đến nay.

2. Cà Văn B; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 06/02/1998 tại xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Trồng trọt; chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Cà Văn Th, sinh năm: 1975 và bà Cà Thị U, sinh năm: 1974; có vợ là Lò Thị B, sinh năm 2000 và có 01 con 01 tuổi; tiền án, tiền sự: Chưa có; bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2019 cho đến nay.

Người bào chữa cho các bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B: ông Đàm Mạnh Hùng, luật sư đoàn luật sư tỉnh Sơn La cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 13 giờ 30 phút ngày 04/6/2019, Tổ công tác Công an xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản Tăng, xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang Lò Văn Ch (sinh năm 1999) và Cà Văn B (sinh năm 1998) đều trú tại: Bản Pài, xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

* Tang vật thu giữ gồm:

1/ Một gói nilon màu trắng bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng hồng nghi là heroine và ma túy tổng hợp (theo Ch, B khai là Heroine và hồng phiến).

2/ Một chiếc xe mô tô, BKS: 34M8 - 2553, nhãn hiệu CPI, loại xe DREAM, sơn màu nâu, đã qua sử dụng cũ.

(Gồm: Hai khoản). (BL: 74 - 75 hồ sơ).

Hi 19 giờ 00 phút ngày 04/6/2019, tại Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh ma túy gói trong nilon màu trắng thu giữ của Lò Văn Ch, Cà Văn B gồm: Số chất bột cục màu trắng nghi là Heroine và ma túy tổng hợp trộn lẫn, có tổng khối lượng 0,20 gam (ký hiệu CB1) gửi giám định chất và loại ma túy. Tại Kết luận giám định số: 1034 ngày 09/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu CB1 là ma túy; loại hỗn hợp Heroine và Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là: 0,20 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,20 gam, loại hỗn hợp heroine và Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định). (BL: 45 - 48 hồ sơ).

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, Lò Văn Ch và Cà Văn B đã khai nhận nhƣ sau:

Khong 11 giờ 00 phút ngày 04/6/2019, Lò Văn Ch điều khiển 01 chiếc xe máy, BKS: 34M8-2553, nhãn hiệu CPI, loại xe DREAM, sơn màu nâu từ nhà ở Bản Pài, xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đi dạo quanh trong bản thì gặp Cà Văn B ở cùng bản. Qua nói chuyện, Ch rủ B góp tiền đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng, B đồng ý. Tiếp đó, B đưa cho Ch số tiền 50.000 đ (Năm mươi nghìn đồng), còn Ch góp thêm 50.000 đ (Năm mươi nghìn đồng), tổng cộng: 100.000 đ (Một trăm nghìn đồng), rồi Ch điều khiển xe máy chở B đi ra xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu tìm mua ma túy. Khi đến Bản Thôm, xã Thôm Mòn, Ch và B gặp và hỏi mua của một người đàn ông dân tộc Thái (Ch, B không biết họ, tên, tuổi, nơi ở cụ thể) nhìn giống người nghiện đang đứng trên đường liên bản được một lượng ma túy (một ít heroine và hồng phiến trộn lẫn, màu trắng hồng) gói bằng nilon màu trắng với giá 100.000 đ (Một trăm nghìn đồng). Mua được ma túy xong, Ch cầm gói ma túy cất vào túi áo ngực đằng trước bên phải đang mặc, rồi B điều khiển xe máy chở Ch đi về nhà. Khi Ch, B đến khu vực Bản Tăng, xã Nậm Lầu thì bị Tổ công tác Công an xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu yêu cầu dừng xe kiểm tra ma túy, phát hiện và thu giữ cùng tang vật. Sau đó, Tổ công tác áp giải Lò Văn Ch, Cà Văn B về Trụ sở UBND xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang như đã nêu trên. (BL: 78 - 87, 90 - 101 hồ sơ).

Tại bản cáo trạng số: 123/CT-VKS ngày 12-9-2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu truy tố các bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn Ch từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 04-6-2019 ( là ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Cà Văn B từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 04-6-2019 ( là ngày bắt giữ bị cáo ).

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, ngoài ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Ch cùng đồng phạm – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 04/6/2019”, mặt sau phong bì niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong và hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu: Một mảnh giấy ni lon màu trắng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu;

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: Một xe máy BKS: 34M8-2553, nhãn hiệu CPI, loại xe DREAM, màu sơn nâu, số máy: 000063, số khung: 02500063, xe đã qua sử dụng cũ.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với lời luận tội điểm, khoản, Điều luật của đại diện Viện kiểm sát truy tố, xét xử các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay các bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo hưởng mức án thấp nhất sớm có cơ hội về với gia đình, xã hội; đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Lời nói sau cùng của các bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay các bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và xin miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp [2] Về nội dung: Vào hồi 11 giờ 00 phút ngày 04-6-2019, tại khu vực bản Tăng, xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu các bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B đã có hành vi cất giữ trái phép 0,20 gam chất ma túy (gồm 02 loại Heroine và loại Methamphetamine trộn lẫn) trong người thì bị tổ công tác công an xã Nậm Lầu, huyện Thuận Châu, làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo phù hợp với:

Lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang ngay vào hồi 11 giờ 00 phút ngày 04-6-2019, bản kết luận giám định số 1034 ngày 09/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận hành vi cất giữ trái phép 0,20 gam chất ma túy (gồm 02 loại Heroine và loại Methamphetamine trộn lẫn) trong người với mục đích để sử dụng của các bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét vị trí vai trò đồng phạm thấy: bị cáo Lò Văn Ch là người khởi xướng, rủ Cà Văn B đi mua ma túy; bị cáo Cà Văn B là người bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực nên có vai trò ngang nhau.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của các bị cáo thuôc trương hơp nghiêm trong , đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó cần áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 có mức hình phạt từ 01 đến 05 năm đối với các bị cáo.

[5] Xét nhân thân các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy mà vẫn cố ý phạm tội nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với tệ nạn ma túy. Cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo để trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[6] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo tàng trữ lượng ma túy không lớn, mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 [7] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 

[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản thu nhập nên không có khả năng nộp phạt do đó Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[9] Về vật chứng:

Đi với 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, là công cụ phương tiện các bị cáo dung vào việc phạm tội và hết giá trị sử dụng cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 chiếc xe mô tô, BKS: 34M8-2553, nhãn hiệu CPI, loại xe DREAM, sơn màu nâu là phương tiện Lò Văn Ch chở Cà Văn B dùng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định: chiếc xe mô tô, có nhãn hiệu TIANHONG, đăng ký mang tên: Nguyễn Văn Truyển, trú tại: xã D H, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Chính mua lại của Truyển khi đi làm thuê nhưng không làm giấy tờ mua bán và chưa sang tên đổi chủ. Quá trình sử dụng xe do bưởng máy bị hỏng nên Chính đã thay bằng bưởng máy, vỏ máy nhãn hiệu CPI, hết giá trị lưu hành cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[10] Về nguồn gốc ma túy (Heroine, Methamphetamine), Lò Văn Ch và Cà Văn B khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái ở bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu với giá 100.000 đồng vào ngày 04/6/2019. Quá trình điều tra, các không biết họ, tên, tuổi, nơi ở cụ thể của đối tượng trên nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu không có căn cứ điều tra, xử lý, cần chấp nhận.

[11] Gia đình bị cáo Lường Văn Ch thuộc hộ nghèo, gia đình bị cáo Cà Văn B thuộc hộ cận nghèo; các bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt Căn cứ Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự

- Tuyên bố các bị cáo Lò Văn Ch, Cà Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy;

- Xử phạt bị cáo Lò Văn Ch 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 04-6-2019 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo).

- Xử phạt bị cáo Cà Văn B 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 04-6-2019 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo).

Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên đều được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh - đỏ, dán kín, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn Ch cùng đồng phạm - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 04/6/2019” - Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: Một xe máy BKS: 34M8-2553, nhãn hiệu CPI, loại xe DREAM, màu sơn nâu, số máy: 000063, số khung: 02500063, xe đã qua sử dụng cũ.

4. Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

5. Quyền kháng cáo Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự báo cho các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 110/2019/HSST ngày 25/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;