Bản án 110/2019/HNGĐ-ST ngày 12/12/2019 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 110/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/12/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 306/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đào Thị Pha L, sinh năm 1978; địa chỉ: Ấp M, xã Th, huyện B, tỉnh Bạc Liêu; địa chỉ tạm trú: Số 464/1/1, đường Th, Tổ 1, Khu phố 8, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Đặng Bé T, sinh năm 1985; địa chỉ: Ấp T, xã Q, huyện D, tỉnh Bạc Liêu; địa chỉ tạm trú: Số 464/1/1, đường Th, Tổ 1, Khu phố 8, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại Đơn khởi kiện đề ngày 11/9/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Đào Thị Pha L trình bày:

Bà L và ông T là vợ chồng, chung sống với nhau năm 2014, đăng ký kết hôn ngày 29/7/2014 tại UBND xã Th, huyện B, tỉnh Bạc Liêu.

Trước khi kết hôn với ông T, bà L có 01 đời chồng và 02 con riêng. Ông T chấp nhận nên hai người kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Đến cuối năm 2014 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi vã, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Ngoài ra, ông T còn cờ bạc, quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và bỏ nhà đi từ ngày 24/4/2018. Hiện nay, bà L nhận thấy không còn tình cảm với ông T, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà L, ông T không có con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Đặng Bé T không đến Tòa án để làm việc; không nộp văn bản nêu ý kiến và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Tại phiên tòa,

- Bà L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng không đến tham gia phiên tòa. Do đó, căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa xét xử vắng mặt bà L, ông T.

- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm; nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, nhận thấy hôn nhân của bà L, ông T mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có cơ sở chấp nhận.

+ Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm: Không.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến trình bày của nguyên đơn và ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự). Do bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nên thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự). Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn liên quan đến quyền nhân thân nên thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện (quy định tại Điều 39, khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Dân sự).

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng:

Về hôn nhân: Bà L, ông T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông bà được pháp luật công nhận. Bà L nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi vã, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Ngoài ra, ông T còn cờ bạc, quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Ông T không đến Tòa án trình bày ý kiến, phản bác ý kiến của bà L. Do đó, ý kiến của bà L thuộc trường hợp những tình tiết không cần phải chứng minh quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét thấy, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, qua lời trình bày và chứng cứ của bà L giao nộp, thấy rằng: Mâu thuẫn tình cảm giữa bà L, ông T là có thật, cả hai đã sống ly thân từ tháng 4/2018 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, nền tảng một gia đình hạnh phúc không có. Tòa án thông báo cho ông T đến Tòa hòa giải, hàn gắn tình cảm nhưng ông T không đến. Chứng tỏ ông T cũng không còn tình cảm với bà L, không mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà L, ông T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà L, ông T không có con chung nên Tòa không xem xét việc nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà L, ông T không yêu cầu Tòa giải quyết.

[3] Về án phí: Bà L phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, khoản 4 Điều 147, các điều 266, 273, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 39, khoản 1 Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đào Thị Pha L đối với bị đơn ông Đặng Bé T về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung.

- Về hôn nhân: Bà L được ly hôn ông T.

- Về con chung: Không có.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà L, ông T không yêu cầu giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân gia đình: Bà L nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp trước đây theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0034602, ngày 25/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

3. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Bà L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 110/2019/HNGĐ-ST ngày 12/12/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:110/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;