TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 110/2018/HS-ST NGÀY 12/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 110/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2018/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Trần Quốc B, sinh năm 1983 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn BA, xã LA, huyện NT, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Bùi Thị C; có vợ là Trịnh Thị T và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 06 tháng 8 năm 2018 đến ngày 09 tháng 8 năm 2018 chuyển tạm giam; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 06 tháng 8 năm 2018, tại khu vực thôn Đ10, xã DT, huyện NT, thành phố Hải Phòng, Cơ quan công an phát hiện bắt quả tang Trần Quốc B có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để dùng cho bản thân. Thu giữ tại lòng bàn tay trái của Trần Quốc B 01 gói giấy bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, 01 xi lanh và thu giữ 01 xe mô tô biển số 15G1- 42860. Tại bản kết luận giám định số 445/KLGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu của Trần Quốc B là ma túy, có khối lượng 0,1698 gam, là loại Heroine.
Cáo trạng số 124/CT-VKSTN ngày 30 tháng 10 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố Trần Quốc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng: Giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Quốc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điểu 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử phạt bị cáo Trần Quốc B từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Do bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến của bị cáo: Khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Bị cáo đồng ý với tội danh mà Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo nhưng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo và mau chóng trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2 Những chứng cứ xác định bị cáo có tội: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bởi: Lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, bản kết luận giám định cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa nên có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Quốc B đã có hành vi cất giấu trái phép 0,1698 gam chất ma túy với mục đích để sử dụng. Với hành vi nêu trên theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý được pháp luật bảo vệ, vi phạm Luật Phòng chống ma tuý. Tội phạm về ma túy là nguyên nhân xảy ra các tội phạm khác. Tệ nạn ma tuý được xác định là hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội, cản trở sự phát triển lành mạnh của xã hội và con người, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội gây nhiều bức xúc trong nhân dân nên cần phải có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, lời luận tội và đề nghị kết tội của Kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ.
[3 Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và việc xử lý, xét thấy: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên sẽ xem xét khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, tội phạm mà bị cáo đã thực hiện là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, mới đủ để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[4 Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy; hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có tài sản và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về các biện pháp tư pháp: Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29 tháng 10 năm 2018 thể hiện các vật chứng cần xử lý gồm 01 chiếc phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định và 01 chiếc xi lanh là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[6 Trong vụ án này còn có đối tượng bán ma túy cho Trần Quốc B nhưng quá trình điều tra không xác định được căn cước, lý lịch nên không có cơ sở để điều tra. Đối với chiếc xe mô tô biển số 15G1-42860, qua điều tra đăng ký xe mang tên Trần Quốc V. Hiện anh Trần Quốc V vắng mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra tách ra để xác minh, làm rõ sau.
[7 Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
- Xử phạt bị cáo Trần Quốc B (24) Hai mươi bốn tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 06 tháng 8 năm 2018.
- Về án phí: Bị cáo Trần Quốc B phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc phong bì niêm phong số 445/2018/PC54 chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định, 01 xi lanh chưa qua sử dụng (theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29 tháng 10 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng).
- Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 110/2018/HS-ST ngày 12/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 110/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về