Bản án 110/2017/HSST ngày 13/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 110/2017/HSST NGÀY 13/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 9 năm 2017, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Lưu Kiếm, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 80/2017/HSST ngày 03 tháng 08 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Khắc C, sinh năm 1970; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn 1A, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 07/12; con ông Nguyễn Khắc P, sinh năm 1933 và bà Vũ Thị S, sinh năm 1939; có vợ là Vũ Thị N, sinh năm 1974; có 02 con, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/5/2017, có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Khắc C bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do nghiện ma túy nên Nguyễn Khắc C thường mua ma túy về để sử dụng. Khoảng 09h ngày 22/12/2016 C đi đến khu vực chung cư thuộc thôn 9, xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên mua của một đối tượng không quen biết 200.000 đồng được 01 gói heroin, C cất vào túi áo khoác rồi đi về đến khu vực thôn 14, xã Ngũ Lão, huyện Thủy Nguyên thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Tại Bản kết luận giám định số 322/PC54(MT) ngày 26/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Khắc C có trọng lượng là 0,1875 gam, trong đó lượng hêrôin là 0,1190 gam.

Bản cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 01 tháng 08 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố Nguyễn Khắc C về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Khắc C về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 33; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 30 - 36 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng của vụ án, đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Khắc C khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo C phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ và kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên toà thể hiện: Do nghiện ma túy nên Nguyễn Khắc C thường mua ma túy về để sử dụng cho bản thân. Khoảng 9 giờ 22/12/2016, C đi đến khu vực chung cư thuộc thôn 9, xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên mua của một đối tượng không quen biết 200.000 đồng được 01 gói heroin, C cất vào túi áo khoác rồi đi về đến khu vực thôn 14, xã Ngũ Lão, huyện Thủy Nguyên thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Khắc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Nguyễn Khắc C có hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, lượng ma túy qua giám định là 0,1190 gam hêrôin. Như vậy hành vi phạm tội của bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm theo khoản 1 Điều Điều 194 Bộ luật Hình sự như kết luận của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Ma túy là hiểm họa của toàn xã hội, nó không những hủy hoại sức khỏe mà còn làm băng hoại về đạo đức của con người, là nguyên nhân phát sinh ra các loại tội phạm khác. Việc bài trừ tận gốc tệ nạn ma túy trong toàn xã hội đang được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện tuy nhiên loại tội phạm này vẫn đang có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và lượng hình đối với bị cáo:

Xét bị cáo Nguyễn Khắc C phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo ra đầu thú và có bố bị cáo tham gia kháng C và được tặng thưởng huân chương kháng C hạng nhì, đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo để xem xét khi quyết định hình phạt.

Bị cáo bị truy tố và đưa ra xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 02 đến 07 năm tù. Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a).... b)....

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Như vậy so sánh khoản 1 của Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 với khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì khoản 1 của Điều 194 có khung hình phạt cao hơn so với khung hình phạt của khoản 1 Điều 249. Theo quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo được áp dụng quy định có lợi cho bị cáo để xét xử bị cáo theo khung hình phạt của khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuy nhiên căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt với mức án trên khởi điểm của khung hình phạt tù mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo và tăng cường công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này tại địa phương và toàn xã hội.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Khắc C còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng và không có nguồn thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự xác định 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định, là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Khắc C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Khắc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo:

Nguyễn Khắc C: 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/5/2017.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 322/PC54 chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/8/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng)

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội, bị cáo Nguyễn Khắc C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 110/2017/HSST ngày 13/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;