Bản án 109/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 109/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Trong ngày 09 tháng 9 năm 2020 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 128/2020/HSST ngày 07 tháng 08 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 156/2020/QĐXXST-HS ngày 24/8/2020, đối với bị cáo họ và tên:

Nguyễn Công M, tên gọi khác: /; sinh năm 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Số 05 Đường số 8, Khu phố H, phường T, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; con ông Nguyễn Văn Me (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ; chưa vợ con; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị bắt và tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/04/2020, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1963; địa chỉ: Số 314 đường L, Khu phố G, phường M, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 ngày 20/4/2020, tại dưới hầm xe chung cư Sunrise View số 33 đường N, phường M, Quận K, thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an Quận 7 bắt quả tang Nguyễn Công M, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trên tay M một túi vải, bên trong có 01 gói nylon chứa chất tinh thể không màu, 01 gói nylon chứa 186 viên nén màu xanh lá cây, 02 viên nén màu xanh chuối, là ma túy. Số ma túy bị công an thu giữ, M mua từ một người đàn ông tên L (không rõ nhân thân lai lịch) tại quán Bar số 35 đường Y, Quân C, Thành phố Hồ Chí Minh với tổng số tiền 50.000.000 đồng. Mục đích để sử dụng trong tiệc sinh nhật nhưng chưa tổ chức được nên M giữ lại sử dụng dần.

Kết luận giám định số 669/KLGĐ-H ngày 27/04/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

“Tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 38,9414 g (ba tám phẩy chín bốn một bốn gam), loại Ketamine; 186 viên nén màu xanh lá cây là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 64,8718 gam (sáu bốn phẩy tám bảy một tám gam), loại MDMA; 02 viên nén màu xanh chuối là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7433g (không phẩy bảy bốn ba ba gam), loại MDMA”.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) gói niêm phong ma túy;

- 01 (một) túi vải màu trắng dùng đựng chất ma túy;

- 01 (một) điện thoại đi động hiệu Iphone màu đen, không rõ số Imel.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bản Cáo trạng số 131/CT-VKSQ7 ngày 07/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Tp. HCM truy tố bị cáo Nguyễn Công M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm h Khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận, 02 gói nylon chứa ma túy Cơ quan điều tra thu giữ trong trong túi vải trên tay của bị cáo là ma túy bị cáo mua, cất giữ nhằm mục đích sử dụng trong tiệc sinh nhật của mình nhưng chưa tổ chức được nên bị cáo giữ lại sử dụng dần. Bị cáo đi mua ma túy từ một người đàn ông tên L (không rõ lai lịch) tại quán Bar số 35 đường Y, Quân C, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo một mẹ một con, bản thân bị cáo là lao động chính, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo,.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên xử bị cáo Nguyễn Công M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng Điểm h Khoản 3 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Công M từ 10 (mười) đến 11 (mười một) năm tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy gói ma túy niêm phong và túi vải màu trắng bị cáo dùng chứa ma túy; trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Nguyễn Công M đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng; theo Kết luận giám định số 669/KLGĐ-H ngày 27/04/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 38,9414 g (ba tám phẩy chín bốn một bốn gam), loại Ketamine; 186 viên nén màu xanh lá cây là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 64,8718 gam (sáu bốn phẩy tám bảy một tám gam), loại MDMA; 02 viên nén màu xanh chuối là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,7433g (không phẩy bảy bốn ba ba gam), loại MDMA”. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp quy định tại Điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm, vì tội phạm về ma túy gây tác hại lớn cho con người và xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói ma túy niêm phong vụ số 669/2020; 01 (một) túi vải màu trắng dùng đựng chất ma túy.

- Đối với điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, không tõ số Imeil thu giữ của bị cáo là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo;

- Đối với người đàn ông tên L bán ma túy cho bị cáo, kiến nghị Cơ quan điều tra Công an Quận 7 tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[6] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

1. Căn cứ vào Điểm h khoản 3 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công M 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/04/2020.

2. Căn cứ vào Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điểm a khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói ma túy niêm phong vụ số 669/2020; 01 (một) túi vải trắng dùng đựng chất ma túy.

2.2. Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, imei không rõ.

(theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 121 ngày 27/07/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7).

3. Về án phí: Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

4. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, bị cáo, các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 109/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:109/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;