Bản án 109/2020/HS-PT ngày 23/12/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 109/2020/HS-PT NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 101/2020/TLPT-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Vũ Trung K do có kháng cáo của bị cáo Vũ Trung K đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 28/2020/HS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận A3, thành phố Hải Phòng.

- Bị cáo có kháng cáo:

Vũ Trung K, sinh ngày 01 tháng 5 năm 1989 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Tổ A, phường A1, quận A3, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn C và bà Phạm Thị L; có vợ là Lê Thị VA (đã ly hôn) và chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 23 tháng 6 năm 2020 đến ngày 24 tháng 6 năm 2020 thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Quốc T – Luật sư Văn phòng luật sư Lĩnh Chính Thắng, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị hại: Anh Đặng Văn L1, sinh năm 1991. Nơi cư trú: Thôn B, xã B1, huyện B2, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án phạt tù tại phân trại K2, Trại giam Xuân Nguyên, Tổng cục VIII Bộ Công an; vắng mặt (Tòa án không triệu tập do không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ ngày 05 tháng 8 năm 2017, Vũ Thế Q và Nguyễn Thanh T1 (là bạn Q) đang ngủ tại nhà Q thì phát hiện cửa nhà Q bị một số đối tượng ném chất bẩn. T1 và Q đi xuống xem Camera thì thấy 04 người mặc áo mưa, đầu đội mũ bảo hiểm, mặt đeo khẩu trang đi trên 02 xe mô tô Airblade và Louvo LX ném chất bẩn vào nhà Q. Q gọi điện cho Vũ Trung K là em họ của Q nói về việc nhà Q bị ném chất bẩn và bảo K đến nhà Q. Q đi xuống bếp lấy 01 con dao quắm và 01 con dao dạng kiếm trong góc bếp nhà Q mang ra ngoài cửa để ở đầu cổng ra vào. Lúc này, K cũng đi đến cửa nhà Q. Q bảo T1 vào nhà lấy xe mô tô Exiter của Q để trong nhà. Khi T1 lấy xe ra, Q lấy 01 con dao quắm đưa cho K, Q cầm con dao dạng kiếm, cả hai ngồi lên xe mô tô do T1 điều khiển đi về hướng ngã 6 Quán Trữ, tìm những người ném chất bẩn vào nhà Q để đánh nhưng không gặp. Q bảo T1 đi về hướng ngã 5 Kiến An, khi đi đến quán ăn đêm ở số nhà 279 đường Trần Thành Ngọ, thì thấy có xe Airblade dựng ở vỉa hè bên cạnh có ba người đang ngồi ăn đêm là anh Đặng Văn L1, anh Vũ Văn Kh và anh Nguyễn Huy H. Q bảo T1 quay xe lại, T1 cho xe vòng lại và dừng trước cửa quán. T1 ngồi trên yên xe, K cầm dao bước xuống xe đứng gần T1. Q xuống xe tay phải cầm dao chỉ về phía nhóm anh L1, Kh, H nói: “Có phải chúng mày vừa ở đường Trường Chinh về không?”. Nhóm anh L1 đứng dậy chưa kịp nói gì thì Q vung dao chém vào tay trái của anh L1. Anh H bỏ chạy vào trong quán, anh Kh bỏ chạy về hướng ngã 5 Kiến An, K cầm dao đuổi theo anh Kh một đoạn khoảng 05m thì quay lại chỗ T1. Sau khi bị chém anh L1 nói “Bọn anh chém nhầm rồi, bọn em đi ô tô mà” đồng thời chỉ sang đường. Q nhìn sang đường thấy có ô tô nên đi ra xe T1 đang đứng chờ sẵn. T1 lái xe chở Q, K về nhà K. K trả lại dao quắm cho Q. Q và T1 về nhà Q, T1 cất xe còn Q để 02 con dao ở dưới gầm bàn uống nước rồi cả hai đi ngủ. Anh H, anh Kh thấy Q, K, T1 bỏ đi nên đưa anh L1 đi Bệnh viện Kiến An cấp cứu.

Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 478/2017/TgT ngày 07 tháng 9 năm 2017 của Trung tâm Pháp y Hải Phòng: Nạn nhân bị vết thương 1/3 sau dưới cánh tay trái chạy từ sau ra trước, từ trong ra ngoài dài 12 cm lộ đứt khối cơ tam đầu; đứt toàn phần đầu giữa, đứt bán phần đầu ngoài và trong. Vận động duỗi cánh tay hạn chế; vận động cẳng, cổ bàn tay trái được, không tê bì. Kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân do thương tích trên gây nên là 13%. Thương tích trên có đặc điểm do vật sắc tác động trực tiếp gây nên.

Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, Vũ Trung K đã bỏ trốn khỏi địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận A3 đã ra Lệnh truy nã đối với K. Hết thời hạn điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận A3 đã quyết định tách vụ án để tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra đối với K.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2018/HS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2018, Tòa án nhân dân quận A3, thành phố Hải Phòng đã căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự xét xử Vũ Thế Q và Nguyễn Thanh T1 về tội “Cố ý gây thương tích”.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Vũ Thế Q và Nguyễn Thanh T1 đã liên đới bồi thường cho bị hại số tiền 50.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Ngày 26 tháng 6 năm 2020, Vũ Trung K đến Công an quận A3 đầu thú.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2020/HS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020, Tòa án nhân dân quận A3, thành phố Hải Phòng đã căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Trung K: 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Trừ cho bị cáo 02 ngày bị tạm giữ (từ ngày 23/6/2020 đến ngày 24/6/2020).

Ngoài ra, Bản án còn tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo Bản án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29 tháng 9 năm 2020, bị cáo Vũ Trung K có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Trung K giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo với lý do bị cáo thấy Tòa án nhân dân quận A3 đã xét xử bị cáo với mức án 36 tháng tù là quá nặng bởi trong vụ án này gồm ba người, việc gây thương tích cho bị hại là do Vũ Thế Q trực tiếp gây ra, còn bị cáo chỉ a dua đi theo Q và không gây thương tích cho ai. Sau khi gây thương tích cho bị hại, bị cáo đã cùng với Q, T1 bồi thường cho bị hại số tiền 50 triệu đồng, gia đình bị hại đồng ý, không yêu cầu gì. Trước đó, Tòa án nhân dân quận A3 đã xét xử cho Q và T1 được hưởng án treo. Sau khi bị bắt, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bố của bị cáo mới mất, mẹ bị cáo bệnh tật, không có khả năng lao động, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình, gia đình bị cáo đang thờ cúng liệt sĩ Vũ Văn Q1 (là anh trai của bố bị cáo); tại giai đoạn phúc thẩm, gia đình bị hại đã có đơn đề nghị Tòa án cho bị cáo được hưởng án treo.

* Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo Vũ Trung K 36 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là thỏa đáng, không nặng. Sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận A3 đã có lệnh truy nã đối với bị cáo, ngày 26 tháng 6 năm 2020, bị cáo mới ra đầu thú gây cản trở cho việc điều tra, truy tố nên thuộc trường hợp không cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày bị cáo có đóng góp với Q và T1 trong việc bồi thường cho anh L1 nhưng bị cáo không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh nên không có căn cứ cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đối với một số tài liệu chứng cứ bị cáo xuất trình xin giảm nhẹ hình phạt tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm thì đề nghị Hội đồng xét xử có thể xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, hành vi các bị cáo thực hiện có dấu hiệu của tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ”. Tuy nhiên do Bản án xét xử đối với Q và T1 đã có hiệu lực pháp luật và Q, T1 đã thi hành xong hình phạt của mình, bị hại không có ý kiến gì nên theo quy tắc có lợi cho bị cáo và đảm bảo sự ổn định của bản án, đảm bảo sự công bằng cho việc đánh giá vai trò của đồng phạm nên khi xét xử bị cáo K, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét áp dụng thêm tình tiết tăng nặng “Có tính chất côn đồ” đã thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Vì vậy, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo K có xuất trình một số tình tiết mới nhưng xét thấy mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên với K là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Trung K, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Trung K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án đã bị xét xử, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 02 giờ ngày 05 tháng 8 năm 2017, tại trước cửa nhà số 279 đường Trần Thành Ngọ, phường Trần Thành Ngọ, quận A3, thành phố Hải Phòng, Vũ Trung K cùng đồng phạm đã thực hiện hành vi dùng dao dạng kiếm chém vào tay trái của anh Đặng Văn L1, làm cho anh L1 bị tổn thương cơ thể. Do đó, bị cáo Vũ Trung K đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo dùng hung khí nguy hiểm chém bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 13% nên bị cáo bị xét xử với tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Vũ Trung K về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

* Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Vũ Trung K:

[2] Sau khi phạm tội, bị cáo đã bỏ trốn. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận A3 đã có lệnh truy nã đối với bị cáo. Sau một thời gian dài lẩn trốn, ngày 26 tháng 6 năm 2020, bị cáo mới ra đầu thú nên thuộc trường hợp không cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin hưởng án treo.

* Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Trung K:

[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo Vũ Trung K 36 tháng tù là thỏa đáng, không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày bị cáo có đóng góp với Q và T1 trong việc bồi thường cho bị hại nhưng bị cáo không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh nên không có căn cứ chấp nhận. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình đơn xin xác nhận về hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bố mới mất, mẹ bệnh tật, hiện gia đình bị cáo đang thờ cúng liệt sĩ, bố mẹ bị hại có đơn đề nghị cho bị cáo hưởng án treo. Đây là các tình tiết mới có thể xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, tuy nhiên xét thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là phù hợp, tương xứng với hành vi và tính chất phạm tội của bị cáo nên cần giữ nguyên. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Trung K và chấp nhận lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo Vũ Trung K không được chấp nhận nên bị cáo Vũ Trung K phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Trung K, giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2020/HS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận A3, thành phố Hải Phòng.

Căn cứ đ khoản 2 Điều 134; Điều 17, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Trung K: 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ từ ngày 23/6/2020 đến ngày 24/6/2020.

Cấm bị cáo Vũ Trung K đi khỏi nơi cư trú. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú được tính kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ban hành quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Vũ Trung K phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án số 28/2020/HS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận A3, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 109/2020/HS-PT ngày 23/12/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:109/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;