Bản án 109/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 109/2019/HSST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 105/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019, đối với:

Các bị cáo:

1. NGUYỄN THỊ T, sinh năm 1948.

Trú tại: Thôn H, xã B, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Trình độ học vấn: 7/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Con ông Nguyễn Văn M và bà Phạm Thị H (đều đã chết), có chồng là Đoàn Văn A (liệt sỹ chống Mỹ), có 1 con.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân năm 2010 được tặng huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất.

Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đỗ Thị D – Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Bình (Có mặt)

2. ĐOÀN MINH D, sinh năm 1998.

Trú tại: Thôn H, xã B, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Con ông Đoàn Văn T và bà Phạm Thị H.

Tiền án: Năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 01 năm 9 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/8/2019 đến nay (có mặt)

Người làm chứng:

- Anh Phạm Duy H, sinh năm 1983; Trú tại thôn L, xã Q, huyện T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)

- Anh Đặng Văn A, sinh năm 1981; Trú tại Đ, xã P, huyện T, tỉnh Thái Bình (vắng mặt)

Người chứng kiến: Ông Phạm Đăng U, sinh năm 1960 và chị Phạm Thị Thu O, sinh năm 1983; Đều trú tại thôn H, xã B, huyện T, tỉnh Thái Bình (đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 04/8/2019, Đoàn Minh D thuê xe ôm của một người không quen biết đến khu vực cầu phao sông Hóa, xã Hồng Quỳnh, huyện Thái Thụy gặp và mua 2 gói Heroine của một người đàn ông khoảng 45 tuổi, không rõ tên, địa chỉ với giá 600.000 đồng. D mang về nhà chia thành 08 gói nhỏ, sau đó đã sử dụng 3 gói. Còn 5 gói D để trên tủ lạnh ở nhà ngang và bảo bà nội là Nguyễn Thị T nếu có ai hỏi mua ma túy thì bán hộ D với giá 100.000 đồng/gói. T gật đầu đồng ý.

Khong 18 giờ 30 phút ngày 08/8/2019, Phạm Duy H đi nhờ xe của anh Đặng Văn A đến nhà T mua ma túy. H đứng ở cổng gọi “Bà ơi, để cho cháu hai cái”. T hiểu ý H muốn mua ma túy nên vào nhà ngang lấy 2 trong số 5 gói ma túy D để trên mặt tủ ra nhận một tờ tiền 200.000 đồng rồi đưa cho H 2 gói ma túy thì bị tổ công tác Công an huyện Thái Thụy bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của ông Phạm Đăng U, chị Phạm Thị Thu O và chính quyền địa phương, tổ công tác đã kiểm tra phát hiện trong túi áo H đang mặc có 2 gói được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, H khai là Heroine vừa mua của T để sử dụng. Kiểm tra người A và xe mô tô của A nhưng không phát hiện thu giữ gì. A khai không quen biết H, cho H đi nhờ xe và không biết H đi mua ma túy. Kiểm tra người T, phát hiện trong túi quần phía trước bên trái có một tờ tiền 200.000 đồng, T khai đó là tiền vừa bán ma túy cho H. T tự giác vào nhà ngang lấy ra 3 gói, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục ra giao nộp cho tổ công tác và khai nhận đó là số ma túy D đưa cho T để bán kiếm lời. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong số ma túy thu giữ của H trong phong bì ký hiệu A1, niêm phong số ma túy thu giữ của T trong phong bì ký hiệu A2.

Quá trình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, Đoàn Minh D tự khai nhận số ma túy trên là của D đưa cho T bán kiếm lời. Tổ công tác lập biên bản về việc D ra đầu thú. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T, tổ công tác không thu giữ gì.

Bản kết luận giám định số 332/KL-GĐ ngày 09/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu niêm phong số A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,0386 gam. Mẫu niêm phong số A2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,0932 gam.

Ti bản cáo trạng số 108 ngày 23/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị T và Đoàn Minh D về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, Nguyễn Thị T, Đoàn Minh D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi mua bán ma túy và bị bắt như trên.

Lun tội của Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm o, s, x khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58, Điều 50 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58, Điều 50 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo D từ 2năm 6 tháng đến 3 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung, tịch thu tiêu hủy vật chứng thu giữ, tịch thu sung công quỹ số tiền 200.000 đồng và buộc bị cáo D phải chịu án phí.

Ngưi bào chữa cho bị cáo T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo T được hưởng án treo.

Các bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, xử lý vật chứng và không tranh luận. Nói lời sau cùng, các bị cáo đều ân hận về hành vi phạm tội của bản thân và xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai của người làm chứng (anh Phạm Duy H, anh Đặng Văn A), lời khai của người chứng kiến (ông Phạm Đăng U và chị Phạm Thị Thu O) cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Các bị cáo đều đã trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ và bán 0,0932 gam ma túy để bán và đã bán 0,0386 gam ma túy để kiếm lời là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo đã xâm hại quyền quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện, làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây bức xúc trong nhân dân.

[4] Như vậy hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma tuý quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Việc đưa vụ án ra xét xử và xử các bị cáo mức hình phạt tương xứng, cho cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện, để răn đe, đấu tranh và phòng ngừa tội phạm chung.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy

"1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản."

[5] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo D mua ma túy về cho bị cáo T bán, vai trò của các bị cáo ngang nhau. Các bị cáo thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo T là người trên 70 tuổi, có công với cách mạng, được tặng thưởng Huy chương hạng nhất, có chồng là liệt sỹ nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o, x khoản 1 Điều 51. Bị cáo D đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo D có 1 tiền án nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ song bị cáo đã phạm tội thuộc loại nghiêm trọng, hơn nữa hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo gây hại lớn cho xã hội, làm suy giảm sức khỏe nòi giống, làm băng hoại đạo đức xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác do vậy không thể chấp nhận quan điểm của người bào chữa đề nghị cho bị cáo T hưởng án treo.

[6] Các bị cáo mua bán ma túy để kiếm lời, song do lượng ma túy mua bán nhỏ, bị cáo D không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, bị cáo T là người trên 70 tuổi, kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và miễn nộp tiền án phí đối với bị cáo T.

[7] Ma túy thu giữ của các bị cáo thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 200.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có, cần tịch thu sung vào công quỹ nhà nước. Về nguồn gốc số ma túy, do bị cáo không biết tên, địa chỉ người bán nên không có căn cứ xác minh.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị T và Đoàn Minh D phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý".

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm o, s, x khoản 1 Điều 51, các Điều 38, 17, 58, 50 Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị T 2 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, các Điều 38, 17, 58, 50 Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo Đoàn Minh D 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 09/8/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, bao gói số 332/KL-GĐ. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng.

(Có đặc điểm ghi trong biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy ngày 24/10/2019)

4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự. Miễn tiền án phí đối với bị cáo T.

5. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 20/11/2019./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 109/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:109/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;