Bản án 108/2021/HSST ngày 13/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 108/2021/HSST NGÀY 13/04/2021 VỀ TI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Trong ngày 13 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 03 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2021/QĐXXST - HS ngày 01 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Thị L, sinh năm 1966; Nơi ĐKHKTT và cư trú: Số xxx, ngõ xxx phố B, phường B, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/10; Con ông: Phạm Văn V (đã chết); Con bà: Lê Thị M (đã chết); Chồng là Nguyễn Đình C; Có 05 con (lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 2001).

Tiền án, tiền sự:

- Từ năm 1983 đến năm 2008 có 05 tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, “Tham ô tài sản” và “Đánh bạc”.

- Ngày 27/9/1991, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm xử phạt 8 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 23/12/1991, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 08 tháng tù của Bản án số 380/HSPT Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ngày 27/9/1991 là 32 tháng tù (Tài sản trị giá 1.000.000 đồng).

- Ngày 30/7/2002, Tòa án nhân dân huyện Lâm Thao xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 30/8/2002, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. (Tài sản trị giá 700.000 đồng).

- Ngày 27/12/2004, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Ngày 24/12/2015 Tòa án nhân dân quận Đống Đa phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 12/4/2017, Tòa án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 20/9/2019.

Danh chỉ bản số 000000769 do Công an quận Đống Đa lập ngày 15/12/2020.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 14/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an thành phố Hà Nội; Có mặt tại phiên toà.

Ngưi bị hại: Chị Đinh Thị T, sinh năm: 1988; Trú tại: Số xxx Hồ Ba Mẫu, phường T, quận Đống Đa, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 7 giờ 10 phút ngày 14/12/2020, Phạm Thị L đi bộ trong khu vực chợ Nam Đồng, phường Nam Đồng, quận Đống Đa, Hà Nội, thấy Đinh Thị T đang ngồi trên xe máy nhãn hiệu Honda SH màu trắng đen, BKS: 26G1 - 169.79 mua hoa tại trước nhà A1, tập thể Nam Đồng, phường Nam Đồng, quận Đống Đa, Hà Nội. L phát hiện trong túi áo khoác bên trái của chị T không khóa và có để 01 chiếc điện thoại di động Iphone 8 plus màu hồng, có ốp lưng màu đen. Lợi dụng lúc chị L đang mua hàng không để ý, L đã tiến lại gần vị trí của chị T rồi dùng tay trái lấy chiếc điện thoại từ trong túi áo khoác của chị T ra thì bị chị T phát hiện và túm giữ được tay trái của L khiến chiếc điện thoại rơi xuống phần yên xe máy của chị T. Sau đó, chị T đã trình báo Công an phường Nam Đồng.

Cơ quan Công an thu giữ được của Phạm Thị L: 01 chiếc điện thoại Iphone 8 plus màu hồng có ốp lưng màu đen.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 520/KL - HĐĐGTS ngày 22/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản quận Đống Đa, kết luận:

- 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus 256GB màu hồng đã qua sử dụng định giá 6.500.000 đồng.

- 01 chiếc ốp lưng điện thoại Iphone 8 Plus màu đen định giá: 12.000 đồng. Tại Cơ quan điều tra, Phạm Thị L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng là chiếc điện thoại Iphone 8 Plus màu hồng cùng ốp lưng điện thoại đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chị Đinh Thị T. Chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Tại bản cáo trạng số 107/CT-VKSĐĐ ngày 29 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố Phạm Thị L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Phạm Thị L khai nhận hành vi như bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa giữ quyền công tố sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên và đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt Phạm Thị L mức án từ 28 đến 32 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ và các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an quận Đống Đa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, trong quá trình điều tra, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là thống nhất và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người bị hại cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Khoảng 7 giờ 10 phút ngày 14/12/2020, tại khu vực trước nhà A1 tập thể Nam Đồng, phường Nam Đồng, quận Đống Đa, Hà Nội, Phạm Thị L đã có hành vi “Trộm cắp tài sản” là 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus màu hồng cùng ốp lưng điện thoại, tổng trị giá: 6.512.000 đồng của chị Đinh Thị T thì bị phát hiện bắt quả tang. Như vậy, hành vi của bị cáo phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở lén lút trộm cắp, tài sản chiếm đoạt là 01 chiếc điện thoại trị giá 6.512.000 đồng. Hành vi trộm cắp của bị cáo rất liều lĩnh, thực hiện giữa ban ngày. Nhân thân bị cáo xấu, hồ sơ thể hiện có nhiều tiền án, tiền sự. Tiền án năm 2017 xác định là tái phạm nguy hiểm, tính đến thời điểm phạm tội thì tiền án này vẫn chưa được xóa nên lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm, là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy thấy, bị cáo được giáo dục pháp luật nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục có hành vi phạm tội. Do vậy, cần thiết phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo và làm bài học ngăn ngừa chung.

Các tình tiết giảm nhẹ được xem xét khi lượng hình đối với bị cáo: Thái độ khai báo thành khẩn; Ăn năn hối cải; Phạm tội chưa gây thiệt hại. Các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về vật chứng vụ án: Không.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

sự;

QUYẾT ĐỊNH

Tun bố bị cáo Phạm Thị L phạm tội “Trm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình

Xử phạt bị cáo Phạm Thị L 28 (Hai mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2020.

Áp dụng: Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về vật chứng vụ án: Không.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 108/2021/HSST ngày 13/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:108/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;