Bản án 108/2021/HS-ST ngày 08/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 108/2021/HS-ST NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 03 năm 2021, tại trụ Tòa án nhân dân Thành phố B đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 104/2021/HSST ngày 08/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2021/QĐXXST- HS ngày 19/02/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Cao T, Sinh năm 1984 tại Đ;

Nơi cư trú: 98/10A, tổ 8A, khu phố 1, phường Quyết Thắng, thành phố B, tỉnh Đ.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Không;

Họ và tên cha: Trần Xuân L; sinh năm 1944; (đã chết) Họ và tên mẹ: Cao Thị Tuyết N, sinh năm 1958; (còn sống).

Có vợ: Nguyễn Ngọc Á,sinh năm 1987 và 01 con sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bắt từ ngày 12/11/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Thành phố B.

- Bị hại Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1970.

Trú tại địa chỉ: 35, tổ 20, khu phố Cầu Hang, phường Hoá An, thành phố B, tỉnh Đ.

(Bị cáo có mặt; Bị hại vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Cao T là nguời không có  nghề nghiệp và sử dụng trái phép chất ma túy. Để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, khoảng 07 giờ 50 phút ngày 12/11/2020, T và đối tượng tên Tuấn (chưa rõ họ, địa chỉ) đã rủ nhau đi trộm cắp tài sản. T điều khiển xe mô tô biển số 60X6-6913 chở Tuấn đi đến khu vực khu phố Cầu Hang, phường Hóa An, Thành phố B thì cả hai phát hiện trước sân nhà số 35, tổ 20, khu phố Cầu Hang của anh Nguyễn Văn H làm chủ có để 01 (một) máy phát điện hiệu Yokohama 3.8GF-3 không có người trông coi nên T dừng xe cách sân nhà 2 mét để Tuấn đi vào trong sân nhà khiêng chiếc máy phát điện của anh H mang ra để lên yên xe. Lúc này, anh H phát hiện sự việc nên đã truy hô và chạy ra bắt giữ được T giao cho Công an phường Hóa An lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố B điều tra, xử lý, còn Tuấn chạy thoát.

Tại bản kết luận định giá số 510/KL-HĐĐGTS ngày 13/11/2020, của Hội đồng định giá tài sản Thành phố B kết luận: “01 (một) máy phát điện Yokohama 3.8GF-3 trị giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) máy phát điện hiệu Yokohama 3.8GF-3 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố B đã trả lại cho anh Nguyễn Văn H.

- 01 (một) chiếc xe mô tô có gắn biển số 60X6-6913 là phương tiện bị can Trần Cao T sử dụng vào việc phạm tội, hiện nay chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố B tiếp tục tạm giữ để xác minh và xử lý sau.

Về dân sự: anh Nguyễn Văn H không yêu cầu bồi thường, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Đối với đối tượng Tuấn (chưa rõ họ và địa chỉ), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh điều tra làm rõ và xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 119/CT/VKS-BH ngày 01/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố bị cáo Trần Cao T về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự để tuyên xử bị cáo Trần Cao T về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề xuất áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm I, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đồng thời để xuất mức hình phạt đối với bị cáo T từ 08 tháng tù giam đến 10 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường cũng như không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra để xem xét giải quyết.

Về án phí: Đề nghị xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi pham tội và thống nhất với nội dung truy tố của bản cáo trạng, ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là hành vi trái với quy định của pháp luật, nên xin Hội đồng xét xử xử phạt giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, lời khai của những bị hại và người làm chứng có tại hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét thấy, tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay, bị cáo Trần Cao T đã khai nhận vì không có nghề ngH, không có nơi cư trú ổn định, lại nghiện ma tuý. Vì để có tiền tiêu xài, thoả mãn cơn nghiện, nên ngày 12/11/2020, Trần Cao T và đối tượng tên Tuấn (chưa rõ họ, địa chỉ) đã thực hiện hành vi trộm cắp của anh Nguyễn Văn H 01 (một) máy phát điện Yokohama 3.8GF-3 có trị trị giá theo kết luận định giá là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) tại nhà của anh H thì T bị bắt giữ để điều tra xử lý, còn Tuấn chạy thoát. Như vậy, hành vi của bị cáo T đã đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hội đồng xét xử nhận định hành vi của bị cáo T là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác là một loại khách thể được pháp luật bảo vệ; làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hoang mang bất ổn nơi quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo T là người đã trưởng thành, có sức khỏe, có khả năng lao động để tạo ra thu nhập, nhưng vì lười lao động lại ham chơi, đua đòi sa ngã vào con đường nghiện ngập ma tuý, dẫn đến để có tiền tiêu xài và mua ma tuý sử dụng, bị cáo đã nảy sinh lòng tham thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt phù hợp, nghiêm khắc nhằm cải tạo giáo dục bị cáo cũng như nhằm răn đe tội phạm nói chung.

[4]. Tuy nhiên, khi lượng hình phạt cũng cần xem xét tại phiên toà ngày hôm nay và trong suốt quá trình điều tra truy tố, bị cáo luôn tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, chưa tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những là tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, sẽ được cân nhắc xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo T.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường cũng như không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra để xem xét giải quyết.

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Cao T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về áp dụng điều luật: Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội

- Về mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Cao T: 08 (Tám) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 12/11/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường cũng như không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra để xem xét giải quyết.

- Về án phí: buộc bị cáo Trần Cao T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 108/2021/HS-ST ngày 08/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:108/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;