Bản án 108/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 108/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 114/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 03 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 91/2021/QĐXX-ST ngày 03 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T; nơi cư trú: Thôn 4, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Trần Đìnhị T; nơi cư trú: Thôn 4, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 08/03/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị Thanh T (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 31 ngày 10 tháng 8 năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt và nuôi dạy con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn, vợ chồng chị hiện đã sống ly thân. Nay, chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Đìnhị T.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T khai chị và anh Trần Đìnhị T có 03 con là Trần Thị Mai A, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2003; Trần Thị AT, sinh ngày 28 tháng 9 năm 2007 và Trần Thị PA, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012. Trường hợp ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi 02 con là Trần Thị Mai A và Trần Thị AT và yêu cầu Tòa án giao cho anh Trần Đìnhị T được trực tiếp nuôi con Trần Thị PA.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T khai chị và anh Trần Đìnhị T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T khai: Chị và anh Trần Đìnhị T không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 5 năm 2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, anh Trần Đìnhị T (bị đơn) khai:

Về hôn nhân: Anh Trần Đìnhị T thừa nhận lời khai của chị Nguyễn Thị Thanh T về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay chị T xin ly hôn, quan điểm của anh T mong muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con nên anh T không đồng ý ly hôn chị T.

Về con chung: Anh Trần Đìnhị T khai anh và chị Nguyễn Thị Thanh T có 03 con là Trần Thị Mai A, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2003; Trần Thị AT, sinh ngày 28 tháng 9 năm 2007 và Trần Thị PA, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012. Trường hợp ly hôn, anh T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả 03 con chung.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T khai anh không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh Trần Đìnhị T khai: Anh và chị T không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh T. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T và anh T được ly hôn. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T có 03 con là Trần Thị Mai A, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2003; Trần Thị AT, sinh ngày 28 tháng 9 năm 2007 và Trần Thị PA, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của các con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng 02 con Trần Thị Mai A và Trần Thị AT cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Trần Đìnhị T trực tiếp nuôi dưỡng con Trần Thị PA cho đến khi con Trần Thị PA đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Các đương sự thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Trần Đìnhị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T được xác lập vào năm 2002 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Do mâu thuẫn nên chị T và anh T hiện đã sống ly thân nhau. Chị T xin ly hôn, quan điểm của anh T không đồng ý ly hôn nhưng tại các phiên tòa anh T đều vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị T và anh T được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T có 03 con là Trần Thị Mai A, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2003; Trần Thị AT, sinh ngày 28 tháng 9 năm 2007 và Trần Thị PA, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012. Trường hợp ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi 02 con là Trần Thị Mai A và Trần Thị AT và yêu cầu Tòa án giao cho anh Trần Đìnhị T được trực tiếp nuôi con Trần Thị PA. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện chị T, anh T đều có công việc ổn định. Các con Trần Thị Mai A và Trần Thị AT đều có nguyện vọng ở với mẹ. Con Trần Thị PA có nguyện vọng được ở với bố. Vì vậy giao cho chị Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Trần Thị Mai A và Trần Thị AT cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Trần Đìnhị T trực tiếp nuôi dưỡng con Trần Thị PA cho đến khi con Trần Thị PA đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Trần Đìnhị T.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Thanh T được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con là Trần Thị Mai A, sinh ngày 08 tháng 12 năm 2003 và Trần Thị AT, sinh ngày 28 tháng 9 năm 2007 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Trần Đìnhị T được trực tiếp nuôi dưỡng con Trần Thị PA, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2012 cho đến khi con Trần Thị PA đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0015797 ngày 29 tháng 03 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Nguyễn Thị Thanh T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị Thanh T, anh Trần Đìnhị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 108/2021/HNGĐ-ST ngày 30/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:108/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;