Bản án 108/2021/HNGĐ-ST ngày 24/03/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 108/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/03/2021 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 24/3/2021 Tại trụ sở Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 57/2021/TLST- HNGĐ ngày 02/02/2021 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/3/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1973;

Địa chỉ: Số nhà 07, ngách 72/30, TDP P, phường T, quận N, thành phố Hà Nội. Có mặt.

Bị đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1974;

Địa chỉ: Số nhà 3B, ngõ 27, tổ dân phố P, phường T, quận N, thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/01/2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là anh Nguyễn Hồng Q trình bày:

Tôi kết hôn với chị Lê Thị H trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, đăng ký kết hôn ngày 20/12/1996 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hà Nội nay là phường T, quận N, thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc đến giữa năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm nhau. Tôi và chị H sống ly thân từ giữa năm 2017 cho đến nay. Sau đó, chị H và các con dọn ra ngoài ở riêng từ tháng 02/2021 cho đến nay, mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, tôi xin được ly hôn với chị H.

Về con chung: Tôi và chị H có 03 con chung là: Cháu Nguyễn Huyền C, sinh ngày 01/8/1997, cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 25/9/2004 và cháu Nguyễn Gia Nhật N1, sinh ngày 30/12/2009. Hiện cháu C đã đủ tuổi trưởng thành, ở với ai là quyền của cháu. Ly hôn, cháu N và cháu N1 có nguyện vọng mong muốn ở với ai tôi tôn trọng ý kiến của các cháu.

Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Tôi và chị H tự thỏa thuận, tôi không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về nợ chung: Tôi và chị H không vay nợ ai, không cho ai vay nợ và tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 03/2/2021, bị đơn là chị Lê Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị xác nhận về điều kiện kết hôn và thời gian kết hôn như anh Q trình bày là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Q không quan tâm chăm sóc chị và các con. Chị và anh Q đã sống ly thân từ tháng 02/2021 cho đến nay. Anh Q có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Tuy nhiên đối với yêu cầu khởi kiện của anh Q thì tôi không đồng ý mặc dù tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nhưng chị không đồng ý ly hôn với anh Q vì chị nghĩ cho các con, các con cần phải có đủ cả bố và mẹ.

Về con chung: Chị và anh Q có 03 con chung là: Cháu Nguyễn Huyền C, sinh ngày 01/8/1997, cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 25/9/2004 và cháu Nguyễn Gia Nhật N1, sinh ngày 30/12/2009. Hiện cháu C đã đủ tuổi trưởng thành, ở với ai là quyền của cháu. Ly hôn, tôi có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con là cháu N và cháu N1. Chị đề nghị anh Q phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cả hai cháu là cháu N và cháu N1, mỗi cháu mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng (tổng 4 triệu/ tháng cho cả 02 con) cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành và anh Q phải tạo điều kiện cho mẹ con chị phải có chỗ ăn ở.

Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị và anh Q tự thỏa thuận, chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về nợ: Chị và anh Q không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn là anh Nguyễn Hồng Q giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, cụ thể:

Về quan hệ hôn nhân: Anh xin được ly hôn với chị Lê Thị H.

Về con chung: Anh và chị H có 03 con chung là: Cháu Nguyễn Huyền C, sinh ngày 01/8/1997, cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 25/9/2004 và cháu Nguyễn Gia Nhật N1, sinh ngày 30/12/2009. Hiện cháu C đã đủ tuổi trưởng thành, ở với ai là quyền của cháu. Ly hôn, cháu N và cháu N1 có nguyện vọng mong muốn ở với ai anh tôn trọng ý kiến của các cháu. Trường hợp cả hai cháu N và cháu N1 đều có nguyện vọng ở với chị H thì anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi cả hai con, mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng/cháu, hai cháu là 4.000.000 đồng, cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Vợ chồng tự thỏa thuận, tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh Q và chị H không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là chị Lê Thị H có ý kiến:

Về quan hệ hôn nhân: Chị xác định giữa chị và anh Q có mâu thuẫn, Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Q không quan tâm chăm sóc chị và các con. Chị và anh Q đã sống ly thân từ tháng 02/2021 cho đến nay. Anh Q có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Việc anh Q xin ly hôn đối với chị thì chị không đồng ý vì chị muốn giữ gia đình cho các con.

Về con chung: Cháu N và cháu N1 đều có nguyện vọng ở với chị thì chị đồng ý . Hiện cháu C đã đủ tuổi trưởng thành, ở với ai là quyền của cháu. Chị đề nghị anh Q phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cả hai cháu, mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng/cháu, hai cháu là 4.000.000 đồng cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành và anh Q phải tạo điều kiện cho mẹ con chị phải có chỗ ăn ở.

Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Chị và anh Q tự thỏa thuận, chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về nợ: Chị và anh Q không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm phát biểu ý kiến:

- Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm đưa vụ án ra xét xử thấy Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của mình.

- Về nội dung vụ án:

+ Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể là: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên cho anh Nguyễn Hồng Q được ly hôn với chị Lê Thị H.

+ Về con chung: Đề nghị giao cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 25/9/2004 và cháu Nguyễn Gia Nhật N1, sinh ngày 30/12/2009 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, anh Q có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cả hai con, mức cấp dưỡng là 2.000.000 đồng/tháng cho một cháu, hai cháu là 4.000.000 đồng cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành.

+ Về tài sản chung: Anh Q và chị H đều khẳng định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy không xem xét.

+ Về nợ chung: Anh Q và chị H đều khẳng định không vay nợ ai và không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ kiện giữa Nguyên đơn là anh Nguyễn Hồng Q có địa chỉ cư trú tại: Số nhà 07, ngách 72/30, TDP P, phường T, quận N, thành phố Hà Nội với bị đơn là chị Lê Thị H có địa chỉ cư trú tại: Số nhà 3B, ngõ 27, tổ dân phố P, phường T, quận N, thành phố Hà Nội. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội theo quy định tại Điều 28, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Hồng Q và chị Lê Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, đăng ký kết hôn ngày 20/12/1996 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hà Nội nay là phường T, quận N, thành phố Hà Nội. Vì vậy, hôn nhân của anh Q và chị H là hôn nhân hợp pháp.

Anh Q cho rằng cuộc sống chung không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng bắt đầu từ giữa năm 2017, vợ chồng đã sống ly thân từ giữa năm 2017 cho đến nay. Sau đó chị H và các con dọn ra ngoài ở riêng từ tháng 02/2021 cho đến nay, mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai.

Chị H cũng xác nhận quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Q không quan tâm chăm sóc chị và các con. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02/2021 cho đến nay, mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai. Chị xác định giữa chị và anh Q không còn tình cảm với nhau nhưng chị không đồng ý ly hôn vì muốn giữ gia đình cho các con.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân của anh Q, chị H, xác nhận vợ chồng có mâu thuẫn với nhau trong quan hệ hôn nhân gia đình. Hiện anh Q và chị H đã sống ly thân. Chị H sinh sống tại: Số 3B, ngõ 27, tổ dân phố P, phường T, quận N, thành phố Hà Nội. Cụ thể việc mâu thuẫn giữa anh Q và chị H thì địa phương không nắm rõ.

Tòa án xác minh tại Công an phường T về nơi cư trú của chị Lê Thị H thì được cung cấp chị H có cư trú ổn định tại địa phương.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Q và chị H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị H không muốn ly hôn vì muốn giữ gia đình cho các con nhưng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu của anh Q xử cho anh Q được ly hôn chị H.

Về con chung: Anh Nguyễn Hồng Q và chị Lê Thị H có 03 con chung là: Cháu Nguyễn Huyền C, sinh ngày 01/8/1997, cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 25/9/2004 và cháu Nguyễn Gia Nhật N1, sinh ngày 30/12/2009. Hiện cháu C đã đủ tuổi trưởng thành, ở với ai là quyền của cháu. Ly hôn, chị H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con là cháu N và cháu N1. Tại Đơn trình bày nguyện vọng của con, cháu Nguyễn Thảo N và cháu Nguyễn Gia Nhật N1 trình bày nguyện vọng muốn ở với mẹ là Lê Thị H. Anh Q đồng ý để cháu N và cháu N1 cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, cần giao cháu N và cháu N1 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cũng là phù hợp với nguyện vọng của các cháu. Anh Q được quyền được đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Anh Q tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu N1 và cháu N, mức cấp dưỡng là 4.000.000 (Bốn triệu đồng)/tháng cho đến khi các cháu đủ tuổi trưởng thành là phù hợp với điều kiện thu nhập thực tế của anh Q, phù hợp với quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Anh Q và chị H đều khẳng định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Tòa không xem xét.

Về nợ chung: Anh Q và chị H xác nhận không vay nợ ai, không cho ai vay nợ và không yêu cầu Tòa giải quyết, vì vậy Tòa không xem xét.

[3] Về án phí: Anh Nguyễn Hồng Q phải chịu phí án ly hôn sơ thẩm và án phí dân sự đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Hồng Q và chị Lê Thị H được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 56, Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điều 28, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 146, Điều 147, Điều 195, Điều 196 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Nguyễn Hồng Q. Anh Nguyễn Hồng Q được ly hôn với chị Lê Thị H.

2. Về con chung: Anh Nguyễn Hồng Q và chị Lê Thị H có 03 con chung là: Cháu Nguyễn Huyền C, sinh ngày 01/8/1997, cháu Nguyễn Thảo N, sinh ngày 25/9/2004 và cháu Nguyễn Gia Nhật N1, sinh ngày 30/12/2009. Hiện cháu C đã đủ tuổi trưởng thành, ở với ai là quyền của cháu. Giao cháu Nguyễn Thảo N và cháu Nguyễn Gia Nhật N1 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu N và cháu N1 đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Q có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu N1 và cháu N, mức cấp dưỡng là 2.000.000 (Hai triệu)đồng/tháng cho mỗi cháu, tổng là 4.000.000 (Bốn triệu) đồng/tháng cho cả hai con, cho đến khi cháu N1 và cháu N đủ tuổi trưởng thành hoặc đến khi có quyết định khác thay thế.

Anh Q được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung (động sản và bất động sản): Anh Nguyễn Hồng Q và chị Lê Thị H đều khẳng định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Anh Nguyễn Hồng Q và chị Lê Thị H xác nhận không vay nợ ai, không cho ai vay nợ, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí: Anh Nguyễn Hồng Q phải chịu 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 (Bằng chữ: Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh Q đã nộp theo biên lai số 0021201 ngày 29/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận N, thành phố Hà Nội. Nay anh Q còn tiếp tục phải nộp 300.000 (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự đối với người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Án xử công khai sơ thẩm. Nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 108/2021/HNGĐ-ST ngày 24/03/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:108/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;