Bản án 108/2020/HSST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH Q

BẢN ÁN 108/2020/HSST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 110/2020/HSST ngày 27 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/QĐXXST ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: VŨ VĂN M (không có tên gọi khác); Sinh ngày 18 tháng 4 năm 1992. Tại Q, Q; Nơi cư trú: Xóm B, xã L, thị xã Q, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Vũ Văn H, sinh năm 1969; Con bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1968; Có vợ là Lê Thị Th, sinh năm 1994; Có 02 con: con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2020;

Tiền án: Năm 2012 bị Tòa án nhân dân thị xã Q xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 03/12/2017, chấp hành xong hình phạt.

Tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 11/11/2020, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Q. Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Anh Lưu Văn C, sinh năm 1997.

Nơi cư trú: Thôn 3, xã T, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt.

2. Anh Lê Văn D, sinh năm 1992.

Nơi cư trú: Thôn 2, xã T, thị xã Q - Q. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 11/11/2020, tại thôn 2, xã T, thị xã Q, tỉnh Q, Công an thị xã Q trong khi làm nhiệm vụ, phát hiện bắt quả tang Vũ Văn M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi áo khoác phía trong, bên trái M đang mặc 01 túi nilon màu trắng có chứa chất tinh thể màu trắng, dạng cục và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 15C1 - 033.70. Công an thị xã Q đã tiến hành niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại Cơ quan điều tra, M khai nhận: M sử dụng ma túy, loại Heroine từ năm 2010, đến tháng 9/2020 M bắt đầu sử dụng ma túy “đá”. Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 11/11/2020, M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 15C1 - 033.70 đi đến khu vực ngã ba Đ thuộc huyện Th, thành phố H mua ma túy của 01 người đàn ông với số tiền 500.000 đồng với mục đích sử dụng cho bản thân. Khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, M rủ các anh Lưu Văn C và Lê Văn D đi uống nước, đến khoảng 22 giờ 45 phút, khi anh C đang điều khiển xe mô tô nêu trên chở theo D và M đi đến đoạn đường thuộc thôn 2, xã Tiền Ph, thị xã Q thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng là ma túy cùng chiếc xe mô tô. M không nói cho anh C và anh D biết việc mình cất giấu ma túy trong người, đến khi bị bắt quả tang thì anh C và anh D mới biết.

Tại bản kết luận giám định số 1561 ngày 16/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q đối với mẫu vật đã thu giữ của Vũ Văn M là ma túy, loại Methamphetamine; tổng khối lượng 0,211 gam.

(Methamphetamine là chất ma túy có số thứ tự 323 thuộc danh mục 1 Nghị định 73/2018/NĐ-CP  ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất).

Quá trình điều tra bị cáo Vũ Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

Bản cáo trạng số 111/CT-VKSQY, ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, tỉnh Q truy tố bị cáo Vũ Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Vũ Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Văn M từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2020.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 (một) phong bì niêm phong số 1561/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 15C1 - 033.70. Công an thị xã Q đã tiến hành xác minh: M không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo Vũ Văn M không tranh luận gì với nội dung bản luận tội và thừa nhận việc truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan sai. Bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, với lời khai của những người chứng kiến anh Lưu Văn C và anh Lê Văn D, với vật chứng bị thu giữ, biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thị xã Q lập hồi 23 giờ 15 phút ngày 11/11/2020, biên bản niêm phong vật chứng lập hồi 23 giờ 55 phút ngày 11/11/2020, kết luận giám định sô 1561/KLGĐ ngày 16/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 22 giờ 45 phút, ngày 11/11/2020, trên đoạn đường thuộc thôn 2, xã T, thị xã Q, tỉnh Q, Vũ Văn M đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,211 gam (không phẩy hai một một gam) ma túy loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an thị xã Q bắt quả tang.

[3] Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của Vũ Văn M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã quy kết đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c)..., Methamphetamine,...có khối lượng từ 0,1 gam đến 05 gam...” Bị cáo Vũ Văn M là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là trái pháp luật. Nhưng vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quy định của pháp luật về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, hành vi của bị cáo cũng là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự xã hội, tiếp tay cho các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy và là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm khác. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên, cần thiết cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp và thu nhập không ổn định. Nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

- 01 (một) phong bì niêm phong số 1561/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 15C1 - 033.70. Công an thị xã Q đã tiến hành xác minh: M không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc nên Cơ quan điều tra đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

[7] Liên quan trong vụ án có đối tượng đã bán ma túy cho Vũ Văn M. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ nên không đề cập xử lý.

[8] Về án phí:

Buộc bị cáo Vũ Văn M phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn M phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Vũ Văn M 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/11/2020.

2. Về vật chứng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số 1561/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định.

(Tình trạng vật chứng trên thể hiện trong Biên bản giao nhận vật chứng lập vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 30/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Q).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo Vũ Văn M phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 108/2020/HSST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;