Bản án 108/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 12/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 109/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Trọng V, sinh năm 1981; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi cư trú: Số 78, đường Bế Văn Đàn, tổ 9, thị trấn L N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Thơ sơn nước; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Trọng Đ, sinh năm 1951, con bà: Nguyễn Thị A, sinh năm 1952; gia đình có 05 chị em, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1987; vợ: Nguyễn Thị Bích D, sinh năm 1990; con: có 04 con lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án: Bản án số 15/2014/HSST ngày 05/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt bị cáo 10.000.000đ về tội “Đánh bạc”, bị cáo chấp hành nộp phạt ngày 20/4/2020; tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đ từ ngày 18/3/2020 đến nay. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 12 giờ ngày 18/3/2020, công an huyện Đ phối hợp công an thị trấn L N kiểm tra nhà Phan Trọng V, địa chỉ: Số nhà 78, đường Bế Văn Đàn, tổ 9, thị trấn L N, huyện Đ. Tại thời điểm kiểm tra phát hiện bị cáo V đang đứng trước nhà trên tay cầm một gói ni lon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy, khi phát hiện lực lượng công an đến kiểm tra bị cáo V ném gói ni lon xuống đất cách vị trí V đứng khoảng 1,5m. Lực lượng công an đã tiến hành lập biên bản phạm quả tang đối với Phan Trọng V và niêm phong số vật chứng trên đưa đi giám định. Quá trình điều tra bị cáo V khai nhận số ma túy trên bị cáo V mua của một người đàn ông không rõ lai lịch vào ngày 17/3/2020 tại đường Thống Nhất, thị trấn L N, huyện Đ với giá 500.000đ về để sử dụng thì bị bắt.

Theo kết luận giám định số 602/GĐ – PC09 ngày 23/3/2020, mẫu tinh thể đựng trong một gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4617g, loại Methamphetamine.

(Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT:323, Nghị định 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của chính phủ.) Vật chứng thu giữ gồm:

- Số ma túy còn lại sau khi giám định.

- 02 bình nhựa gắn ống thủy tinh và ống hút sử dụng ma túy.

Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng chuyển chi cục thi hành án chờ xử lý.

Cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Phan Trọng V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát huyện Đ thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xét xử phạt bị cáo Phan Trọng V từ 02 đến 03 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hoạt động điều tra, truy tố của điều tra viên, kiểm sát viên thì thấy rằng trong quá trình điều tra, truy tố, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, không ai có ý kiến thắc mắc hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng. Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Phan Trọng V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cụ thể như sau: Do nghiện ma túy nên bị cáo có mua ma túy của một người đàn ông không rõ lai lịch vào ngày 17/3/2020 tại đường Thống Nhất, thị trấn L N, huyện Đ với giá 500.000đ về để sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 12 giờ ngày 18/3/2020 khi bị cáo đang ở nhà thì bị Công an huyện Đ tiến hành kiểm tra hành chính và phát hiện số ma túy của bị cáo đã mua trước đó. Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, đồng thời niêm phong toàn bộ số ma túy để gửi giám định. Tại bản kết luận giám định số 602/GĐ – PC09 ngày 23/3/2020, Mẫu tinh thể đựng trong một gói nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,4617g, loại Methamphetamine.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng vụ án và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Phan Trọng V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, chứng tỏ bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, ổn định tại địa phương mà còn xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy.

[4] Xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người đang có tiền án, cụ thể: Bản án số 15/2014/HSST ngày 05/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt bị cáo 10.000.000đ về tội “Đánh bạc”, bị cáo chấp hành nộp phạt ngày 20/4/2020, sau khi bị cáo bị bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới khi chưa được xóa án tích nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo là đúng pháp luật.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Từ những phân tích nhận định trên, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình và mang tính răn đe, giáo dục phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[6] Về tang vật của vụ án: Đối với số ma túy của bị cáo còn lại sau khi gửi đi giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong số 602/2020 “Bao gói”; 01 phong bì niêm phong số 602/2020 “Hoàn mẫu” 0,2311g có đóng dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng; 02 bình nhựa gắn ống thủy tinh và ống hút xét thấy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

[7] Trong vụ án có đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch nên đề nghị Công an huyện Đ tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Trọng V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phan Trọng V 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/4/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Giao Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo trong 01 phong bì niêm phong số 602/2020 “Bao gói”; 01 phong bì niêm phong số 602/2020 “Hoàn mẫu” 0,2311g có đóng dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng; 02 bình nhựa gắn ống thủy tinh và ống hút.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/6/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Phan Trọng V phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 108/2020/HS-ST ngày 12/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;