Bản án 107/2022/HS-ST về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG - TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 107/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/2022/TLST - HS ngày 19 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Tạ Quang H; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày:

29/10/1985 tại huyện N, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: tổ 05, phường Đ, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;

Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Tạ Quang H (đã chết); Con bà: Bùi Thị H - sinh năm 1960 (HKTT: Thị trấn S, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La); Anh, chị, em ruột: Bị cáo là con út trong gia đình có 03 chị em; Vợ: Hoàng Thị Diệu H - sinh năm 1981 (đã ly hôn); Con: bị cáo có 01 con, sinh năm 2012.

Tiền án: 01 Tiền án;

Ngày 30/7/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Tiền sự: Không Nhân thân: Ngày 27/6/2003: Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng) xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng từ ngày 25/4/2022 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lục Thảo P; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày:

08/4/1992 tại huyện N, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú: Tổ 03, thị trấn T, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở hiện nay: Tổ 01, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Lục Sĩ K – sinh năm 1960; Con bà: Lý Thị D – sinh năm 1966 (Cùng trú tại: Tổ 01, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng); Anh, chị, em ruột: Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con cả trong gia đình; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án: 01 Tiền án;

- Ngày 26/4/2020: Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Tiền sự: Không. Nhân thân:

+ Ngày 11/10/2019: Công an phường Đề Thám xử phạt 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi Trộm cắp tài sản.

+ Ngày 27/5/2022: Công an thành phố Cao Bằng khởi tố về tội Trộm cắp tài sản trong một vụ án khác, vụ án hiện đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng trong một vụ án khác; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Bàn Tuấn V– sinh năm 1993;

Đa chỉ: Tổ 04, phường Đ, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

2. Trịnh Đức A – sinh năm 1986;

Đa chỉ: Tổ 04, phường T, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

3. Phạm Xuân Đ – sinh năm 1965;

Đa chỉ: Tổ 03, phường Đ, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

4. Vũ Thị K – sinh năm 1963;

Đa chỉ: Tổ 04, phường T, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

5. Nguyễn Tiến A – sinh năm 1982;

Đa chỉ: Tổ 08, phường T, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. (các bị hại đều có đơn xin xét xử vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Đặng Đình L – sinh năm 1982;

Đa chỉ: Tổ 10, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Hoàng Trường G – sinh năm 1987;

Đa chỉ: Tổ 07, phường H, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Lý Thị D – sinh năm 1965;

Đa chỉ: Tổ 01, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Vi Thị T – sinh năm 1991;

Đa chỉ: Tổ 14, phường T, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng: Chu Thị H – sinh năm 1991;

Đa chỉ: Tổ 03, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 02/2022 đến tháng 05/2022, cơ quan Công an thành phố Cao Bằng tiếp nhận 05 tin báo của quần chúng nhân dân về việc bị mất trộm tài sản, cụ thể:

- Ngày 21/02/2022 tiếp nhận đơn trình báo của Bàn Tuấn V (sinh ngày 01/8/1993; trú tại: Tổ 04, phường Đ, thành phố Cao Bằng) về việc ngày 21/02/2022 V bị mất trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 pro Việt để tại trong xưởng cơ khí tại Tổ 04, phường Đ, thành phố Cao Bằng;

- Ngày 20/4/2022 tiếp nhận đơn trình báo của Nguyễn Tiến A (sinh ngày:

07/8/1982; trú tại: tổ 08, phường T, thành phố Cao Bằng) về việc ngày 17/4/2022 A bị mất trộm 01 máy hàn điện nhãn hiệu JASIC và 01 máy cắt cầm tay nhãn hiệu Cromax để tại ngôi nhà A đang xây dựng tại tổ 10, phường N, thành phố Cao Bằng;

- Ngày 21/4/2022 tiếp nhận đơn trình báo của Trịnh Đức A (sinh ngày:

13/3/1986; trú tại: Tổ 04, phường T, thành phố Cao Bằng) về việc ngày 12/4/2022 Đức A bị mất trộm 01 máy cắt sắt nhãn hiệu BOSCH để tại nhà tại Tổ 04, phường T, thành phố Cao Bằng;

- Ngày 05/5/2022 tiếp nhận đơn trình báo của Vũ Thị K (sinh ngày: 09/5/1963; trú tại: Tổ 04, phường T, thành phố Cao Bằng) về việc ngày 12/4/2022 bị mất trộm 03 giá sắt đựng đồ để trước cửa nhà tại Tổ 04, phường T, thành phố Cao Bằng;

- Ngày 14/5/2022 tiếp nhận đơn trình báo của Phạm Xuân Đ (sinh ngày:

25/5/1965; trú tại: Tổ 03, phường Đ, thành phố Cao Bằng) về việc ngày 27/3/2022 Đ bị mất trộm 01 máy cắt sắt nhãn hiệu Makita để tại ngôi nhà Đ đang xây dựng ở tổ 01, phường T, thành phố Cao Bằng.

Quá trình giải quyết tin báo, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng xác định Tạ Quang H là người đã lấy trộm điện thoại của V, sau đó đưa cho Lục Thảo P đi bán, đồng thời H còn tự thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản của A, Đức A, K và Đ nên đã tiến hành bắt khẩn cấp đối với Tạ Quang H, đồng thời tạm giữ một số tài sản như sau: tạm giữ của H số tiền 180.000đ (một trăm tám mươi nghìn đồng); tạm giữ của P 01 (một) xe mô tô Futirei biển kiểm soát 28N1 - 028.39; tạm giữ của cửa hàng điện thoại di động Đ 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy J7 pro; tạm giữ của Nguyễn Tiến A 01 (một) máy cắt sắt nhãn hiệu BOSCH; tạm giữ của Hoàng Trường G 01 (một) máy hàn nhãn hiệu JASIC; tạm giữ của Vi Thị T 01 (một) xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 11F9 - 8561 và 01 (một) đăng ký xe mô tô.

Quá trình điều tra xác định: Từ tháng 02/2022 đến tháng 4/2022, Tạ Quang H thực hiện 05 (năm) vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 18 giờ ngày 21/02/2022 Lục Thảo P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28N1 - 028.39 do P mượn của mẹ là Lý Thị D (sinh ngày 02/4/1965; trú tại: Tổ 01, phường S, thành phố Cao Bằng) đến phòng trọ của Tạ Quang H tại tổ 05, phường Đ chơi. Khoảng 30 phút sau H rủ P đi xung quanh khu vực thành phố Cao Bằng trộm cắp sắt để đem bán lấy tiền mua ma túy sử dụng thì P đồng ý và sử dụng xe mô tô 28N1 - 028.39 chở H đi đến chợ Km5 Đề Thám. Khi đi đến nhà của Bàn Tuấn V tại tổ 04, phường Đ, H bảo P dừng xe để H vào nhà V với mục đích mượn tiền của V, sau đó P để H xuống xe đi vào nhà V, còn P điều khiển xe đi đổ xăng tại cây xăng gần đó. H sau khi đi vào nhà Việt thấy không có người trong nhà, trên bàn trong phòng có 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 pro đang bật nhạc nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên, H tiền lại gần lấy chiếc điện thoại cho vào túi quần rồi đi ra ngoài nhà thì lúc này P vừa đổ xăng quay lại, H ngồi lên xe P rồi P tiếp tục điều khiển xe đi về hướng ngã tư Nà Cáp. Khi đi được khoảng 100m, H nói với P vừa lấy trộm được 01 (một) chiếc điện thoại của V và bảo P đến cửa hàng điện thoại di động Đ tại phường Sông Hiến để bán, P đồng ý và điều khiển xe đến cửa hàng điện thoại Đ của Đặng Đình L (sinh ngày 31/8/1982; trú tại: Tổ 10, phường S, thành phố Cao Bằng). Khi đến cửa hàng, P dừng xe thì H đưa cho P chiếc điện thoại trên, P vào cửa hàng bán cho nhân viên cửa hàng là Chu Thị H (sinh ngày 29/4/1991; trú tại: Tổ 03, phường S, thành phố Cao Bằng) với giá 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng), sau đó quay ra xe đưa toàn bộ số tiền cho H, H đưa lại cho P 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) bảo P mua xilanh và nước cất để sử dụng ma túy rồi P điều khiển xe chở H đến bến xe khách liên tỉnh Cao Bằng tìm mua Heroine. Tại bến xe, H đi tìm mua ma túy với một người đàn ông lạ mặt hết số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng), P đi mua xi lanh và nước cất hết số tiền 20.000đ (hai mươi nghìn đồng), sau khi mua được ma túy, P điều khiển xe chở H quay lại phòng trọ của H. Trên đường về P và H dừng xe lại tại một bãi đất trống và cùng nhau sử dụng hết số Heroine vừa mua được, sau đó P đưa lại cho H 180.000đ (một trăm tám mươi nghìn đồng) rồi điều khiển xe đưa H về phòng trọ, sau đó P về nhà.

- Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ ngày 27/3/2022, Tạ Quang H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 11F9 - 8561 do H mượn của Vi Thị T đi xung quanh khu vực thành phố Cao Bằng tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi H đi đến gần khu vực Tỉnh đội thì thấy một ngôi nhà đang xây dựng tại tổ 01, phường T, thành phố Cao Bằng. Quan sát thấy không có người xung quanh, H bước bộ vào nhà thì thấy có 01 (một) máy cắt sắt nhãn hiệu Makita của Phạm Xuân Đ đang để trong nhà nên lấy trộm chiếc máy cắt trên, sau đó điều khiển xe đi tìm nơi tiêu thụ. Khi đi đến gần cầu Gia Cung khu vực thuộc phường S, H thấy một người phụ nữ thu mua phế liệu đi xe đạp ngang qua nên bán chiếc máy cắt cho người phụ nữ trên với giá 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng).

- Vụ thứ ba: Khoảng 07 giờ ngày 12/4/2022, H điều khiển xe mô tô 11F9 -8561 đi xung quanh khu vực thành phố Cao Bằng tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến tổ 04, phường T gần ngã ba rẽ lên Bệnh viện Đông Y, H nhìn thấy 03 (ba) giá để đồ bằng sắt của Vũ Thị K đang để trước cửa nhà, quan sát thấy không có người xung quanh nên H lấy trộm 03 (ba) giá để đồ trên, sau đó đi đến gần cầu Gia Cung khu vực thuộc phường Ngọc Xuân thì thấy một người phụ nữ thu mua phế liệu đi xe đạp ngang qua nên bán 03 (ba) giá sắt trên cho người phụ nữ được số tiền 120.000đ (một trăm hai mươi nghìn đồng).

- Vụ thứ tư: Khoảng 09 giờ ngày 12/4/2022, H điều khiển xe mô tô 11F9 -8561 đi theo hướng từ rạp ngoài trời về hướng Bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng. Khi H vượt qua rạp ngoài trời khoảng 200m đến tổ 04, phường T, H nhìn thấy có một ngôi nhà ở bên trái đường, bên trong nhà cạnh cửa ra vào có 01 (một) máy cắt sắt nhãn hiệu BOSCH của Trịnh Đức A. H đỗ xe ở gần nhà, sau đó đi bộ vào nhà quan sát thấy không có người nên lấy trộm chiếc máy cắt sắt trên, sau đó bán cho Nguyễn Tiến A với giá 800.000đ (tám trăm nghìn đồng).

- Vụ thứ năm: Khoảng 11 giờ ngày 17/4/2022, H tiếp tục điều khiển xe mô tô 11F9 - 8561 đi xung quanh khu vực thành phố Cao Bằng tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến ngã ba đường rẽ lên trường Trung học cơ sở Ngọc Xuân tại tổ 10, phường N, thành phố Cao Bằng, H thấy có một ngôi nhà đang xây dựng nên dừng xe và bước bộ vào trong nhà quan sát, thấy bên trong không có người, trong nhà có 01 (một) máy hàn nhãn hiệu JASIC và 01 (một) máy cắt nhãn hiệu Cromax của Nguyễn Tiến A (người đã mua máy cắt sắt nhãn hiệu BOSCH với H ngày 12/4/2022) nên đã lấy trộm 02 (hai) chiếc máy trên, sau đó bán chiếc máy hàn cho Hoàng Trường G với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi bán xong chiếc máy hàn, H điều khiển xe mô tô đến gần cầu Gia Cung khu vực thuộc phường Sông Hiến thì gặp một người phụ nữ thu mua phế liệu đi xe đạp ngang qua nên bán chiếc máy cắt cho người phụ nữ đó với giá 80.000đ (tám mươi nghìn đồng).

Ngày 21/02/2022, Lục Thảo P không hứa hẹn trước với Tạ Quang H, tuy nhiên khi biết rõ H trộm cắp 01 (một) chiếc điện thoại di động đã giúp H đem bán chiếc điện thoại được số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã ban hành các yêu cầu định giá tài sản số 50 ngày 22/02/2022, số 94 ngày 26/4/2022, số 107 ngày 16/5/2022 xác định giá trị tài sản H trộm cắp. Tại các bản kết luận định giá tài sản số 08 ngày 23/02/2022, số 21 ngày 27/4/2022, số 25 ngày 18/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản kết luận về giá trị của các tài sản như sau:

- 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy J7 pro có giá trị 1.360.000đ (một triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng);

- 01 (một) máy cắt sắt màu xanh nhãn hiệu BOSCH có giá trị 3.399.999đ (ba triệu ba trăm chín mươi chín nghìn chín trăm chín mươi chín nghìn đồng);

- 01 (một) máy cắt sắt nhãn hiệu Makita có giá trị 2.160.000đ (hai triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng);

- 01 (một) máy hàn nhãn hiệu JASIC có giá trị 3.049.500đ (ba triệu không trăm bốn mươi chín nghìn năm trăm đồng);

- 01 (một) máy cắt cầm tay nhãn hiệu Cromax có giá trị 666.400đ (sáu trăm sáu mươi sáu nghìn bốn trăm đồng).

- Đối với 03 (ba) giá sắt đựng đồ, do không xác định được vật liệu, hình dạng, kích thước và không thu hồi được tang vật nên không có cơ sở để định giá.

Đi với 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy J7 pro; 01 (một) máy cắt sắt nhãn hiệu BOSCH; 01 (một) máy hàn nhãn hiệu JASIC đã tạm giữ, xét thấy không ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án, cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu.

Hành vi của bị cáo Tạ Quang H và Lục Thảo P đã bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố. Tại bản Cáo trạng số 85/CT- VKSTP ngày 19/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Tạ Quang H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lục Thảo P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo Tạ Quang H, Lục Thảo P thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo nhất trí với bản kết luận định giá tài sản của hội đồng định giá tài sản thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng và không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng.

Bị cáo H khai nhận do bản thân sử dụng ma túy nên trong khoảng thời gian từ tháng 02/2022 đến tháng 05/2022, đã liên tiếp thực hiện nhiều 05 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng và đem bán lấy tiền mua ma túy và tiêu sài cá nhân. Ngày 21/02/2022 H rủ Lục Thảo P đi xung quanh khu vực thành phố Cao Bằng trộm cắp tài sản để đem bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, tuy nhiên khi H trộm cắp chiếc điện thoại của Bàn Tuấn V tại Tổ 04, phường Đ, thành phố Cao Bằng thì P đang đi đổ xăng xe máy nên không biết cũng như không giúp sức cho H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Sau khi trộm xong H mới bảo P đi bán điện thoại. Cả hai cùng đến cửa hàng điện thoại di động Đ tại phường S bán được số tiền 700.000đ. Số tiền này cả hai đã cùng nhau mua ma túy về sử dụng hết 520.000đ, còn lại bị cáo H tiêu sài cá nhân hết. Bị cáo không có ý kiến gì về tài sản bị thu giữ và nhất trí bồi thường cho những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo yêu cầu của họ.

Bị cáo Lục Thảo P thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và nhất trí với lời khai của bị cáo H khai nhận tại phiên tòa. Bị cáo không có ý kiến gì về tài sản bị thu giữ và nhất trí bồi thường cho những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo yêu cầu của họ.

Trong nội dung đơn đề nghị xét xử vắng mặt, các bị hại; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Tạ Quang H.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lục Thảo P.

Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Tạ Quang H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt hình phạt tù có thời hạn từ 24 tháng đến 30 tháng tù;

Tuyên bố bị cáo Lục Thảo P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, xử phạt từ 09 tháng đến 12 tháng tù; Ngoài ra, ngày 31/8/2022 bị cáo P bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 180.000đ thu giữ đối với bị cáo Tạ Quang H do đây là số tiền bị cáo có được từ việc bán tài sản do bị cáo trộm cắp mà có.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

Ti phần tranh luận, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo Tạ Quang H có ý kiến: bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Lục Thảo P có ý kiến: bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung đơn trình báo; lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; bản kết luận định giá tài sản; vật chứng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Do bản thân sử dụng ma túy và để có tiền phục vụ nhu cầu sinh hoạt của bản thân, từ tháng 02/2022 đến tháng 05/2022 Tạ Quang H đã 05 (năm) lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại khu vực thành phố Cao Bằng. Các tài sản H đã trộm được bao gồm: 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy J7 pro có giá trị 1.360.000đ (một triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng) của Bàn Tuấn Việt;

01 (một) máy cắt sắt màu xanh nhãn hiệu BOSCH có giá trị 3.399.999đ (ba triệu ba trăm chín mươi chín nghìn chín trăm chín mươi chín đồng) của Trịnh Đức A; 01 (một) máy cắt sắt nhãn hiệu Makita có giá trị 2.160.000đ (hai triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng) của Phạm Xuân Đ; 01 (một) máy hàn nhãn hiệu JASIC có giá trị 3.049.500đ (ba triệu không trăm bốn mươi chín nghìn năm trăm đồng) và 01 (một) máy cắt cầm tay nhãn hiệu Cromax có giá trị 666.400đ (sáu trăm sáu mươi sáu nghìn bốn trăm đồng) của Nguyễn Tiến A; 03 (ba) giá sắt đựng đồ của Vũ Thị K, do không xác định được vật liệu, hình dạng, kích thước và không thu hồi được tang vật nên không có cơ sở để định giá.

Đi với Lục Thảo P ngày 21/02/2022, bị cáo P không hứa hẹn trước với bị cáo H, tuy nhiên khi biết rõ H trộm cắp 01 (một) chiếc điện thoại di động đã giúp H đem bán chiếc điện thoại được số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng).

Các bị cáo Tạ Quang H, Lục Thảo P là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác và tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có là vi phạm pháp luật nhưng do ham chơi, lười lao động, các bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nhằm mục đích có tiền mua ma túy sử dụng và tiêu sài cá nhân. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác về tài sản được pháp luật bảo vệ. Bị cáo H lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu có hành vi lén lút thực hiện trộm cắp nhiều loại tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bị cáo P không hứa hẹn trước với bị cáo H nhưng khi biết rõ tài sản do phạm tội mà có vẫn giúp sức cho bị cáo H mang tài sản đi tiêu thụ. Hành vi của Lục Thảo P đã phạm vào tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] .Về vai trò của các bị cáo trong việc thực hiện hành vi phạm tội:

Trong lần trộm cắp tài sản ngày 21/02/2022, bị cáo H là người khởi xướng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và được bị cáo P đồng ý, nhưng quá trình thực hiện chỉ do bị cáo H tự thực hiện một mình, bị cáo P khi biết rõ tài sản do H trộm cắp mà có đã giúp sức bị cáo H mang đi tiêu thụ tài sản. Các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội, do đó đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Các bị cáo đều là người nghiện ma túy và có nhân thân xấu. Bị cáo H và bị cáo P đều có 01 tiền án chưa được xóa án tích. Ngoài ra bị cáo H đã từng bị Tòa án xét xử về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo P đã từng bị công an xử phạt hành chính hành vi Trộm cắp tài sản, ngày 31/8/2022 bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tính đến thời điểm xét xử bản án chưa có hiệu lực pháp luật). Điều này cho thấy, các bị cáo đều là người đã được cải tạo, giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tạ Quang H có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản với lỗi cố ý nên phải chịu 02 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên tái phạm quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đi với bị cáo Lục Thảo P đã có 01 tiền án, chưa được xóa án tích, bị cáo P lại tiếp tục thực hiện hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Do đó bị cáo P phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5]. Về hình phạt chính:

Hi đồng xét xử xét thấy, căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tính chất mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xét thấy, đây là vụ án có tính chất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc hành vi phạm tội của các bị cáo. Xét thấy, các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, do đó các bị cáo không có khả năng tự cải tạo giáo dục bản thân trở thành công dân tốt nên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo Tạ Quang H, Lục Thảo P là cần thiết. Trong vụ án này, bị cáo H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần nên phải chịu hình phạt cao hơn bị cáo P. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng đề nghị xử phạt bị cáo Tạ Quang H từ 24 đến 36 tháng tù; bị cáo Lục Thảo P từ 9 tháng đến 12 tháng tù là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 và khoản 5 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Theo tài liệu chứng cứ trong hồ sơ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[7]. Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, các bị hại Nguyễn Tiến A đã nhận lại 01 (một) máy hàn điện nhãn hiệu JASIC, Trịnh Đức A đã nhận lại 01 (máy) cắt sắt nhãn hiệu BOSCH, Bàn Tuấn V đã nhận lại 01 điệu thoại di động Samsung Galaxy J7 pro. Tại phiên tòa, các bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt và xác nhận đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

Đi với tài sản còn lại bị chiếm đoạt không thu hồi lại được, tại phiên tòa các bị hại Vũ Thị K, Phạm Xuân Đ, Nguyễn Tiến A có đơn xin xét xử vắng mặt, không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường thiệt hại về tài sản, ngoài ra không có ý kiến gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

Quá trình điều tra xác định được bà Vi Thị T là chủ sở hữu của 01 (một) xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 11F9 - 8561 cho H mượn xe, Lý Thị D là chủ sở hữu của 01 (một) xe mô tô Futirei biển kiểm soát 28N1 - 028.39 cho P mượn xe. Khi cho P và H mượn xe không biết hai bị cáo sử dụng xe để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nên cơ quan điều tra đã trả lại cho bà D và T. Xét thấy, việc trả lại xe cho chủ sở hữu là có căn cứ. Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lý Thị D, Vi Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt và không có yêu cầu gì đối với các bị cáo nên không đặt ra vấn đề xem xét.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Đình L, Hoàng Trường G không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại đối với số tiền đã bỏ ra để mua lại tài sản mà không biết tài sản do phạm tội mà có nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

[8]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Đi với số tiền 180.000đ (Một trăm tám mươi nghìn) bị cáo H khai nhận đây là số tiền do bị cáo bán tài sản trộm cắp có được nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[9]. Về những vấn đề khác: Đối với người phụ nữ thu mua phế liệu đã mua tài sản với H, do H không biết tên, địa chỉ người đó nên cơ quan điều tra không đủ căn cứ xác minh làm rõ. Đối với Chu Thị H (nhân viên cửa hàng điện thoại Đ) mua chiếc điện thoại, Nguyễn Tiến A mua máy cắt sắt và Hoàng Trường G mua máy hàn với H, cả H, A và G đều không biết là tài sản do H phạm tội mà có nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

[10]. Các ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng tại phiên tòa về điều luật, tội danh, mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là đúng quy định pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[11]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và điều luật: Căn cứ Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Tạ Quang H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Lục Thảo P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt: Bị cáo Tạ Quang H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành án phạt tù được tính kể từ ngày 25/4/2022.

Xử phạt: Bị cáo Lục Thảo P 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành án phạt tù được tính kể từ ngày 22/5/2022.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Các bị hại Nguyễn Tiến A, Bàn Tuấn V, Trịnh Đức A đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường nên cần ghi nhận.

Các bị hại Vũ Thị K, Phạm Xuân Đ, Nguyễn Tiến A chưa nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nhưng không có yêu cầu bị cáo H phải trả lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên cần ghi nhận.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lý Thị D, Vi Thị T đã nhận lại tài sản cho các bị cáo mượn mà không biết các bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội và không có yêu cầu gì đối với các bị cáo nên không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Đình L, Nguyễn Tiến A, Hoàng Trường G không yêu cầu các bị cáo phải trả lại số tiền đã bỏ ra để mua lại tài sản mà không biết tài sản do phạm tội mà có. Xét thấy, ý kiến của ông L, ông A, ông G là tự nguyện nên cần ghi nhận.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xử: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước Tiền Việt Nam: 180.000đ (Một trăm tám mươi nghìn đồng). Số tiền trên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã chuyển vào tài khoản 3949.0.1035584.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng mở tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Cao Bằng theo ủy nhiệm chi ngày 26/8/2022.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 110 ngày 09/9/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử buộc các bị cáo Tạ Quang H và Lục Thảo P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

án.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên Bị hại (vắng mặt tại phiên tòa có lý do) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (vắng mặt tại phiên tòa có lý do) có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 107/2022/HS-ST về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:107/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;