Bản án 107/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai (Đường B2, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2020/TLST- HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn Th; Giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 02 tháng 11 năm 1979 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12:

Hộ khẩu thường trú: Thôn Làng Hang, xã Q, huyện B, tỉnh L Con ông Nguyễn Văn S; con bà: Nguyễn Thị T Tiền sự: Không;Tiền án: 01 tiền án theo bản án số 41/2016/HSST ngày 13/4/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xét xử tội “trộm cắp tài sản” xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn Th 01 năm 3 tháng tù giam đã chấp hành xong phần hình phạt chính, chưa thi hành hành xong phần dân sự nên chưa được xóa án tích.

Nhân thân: Theo bản án số 46/HSST ngày 09/6/2004 của Tòa án nhân dân thị xã Lao Cai xử phạt 21 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt giữ, tạm giam từ ngày 20/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Anh Đào Văn H; sinh năm 1980; Nơi cư trú: Tổ 42, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 30 phút ngày 19/9/2020 tổ công tác Công an phường Lào Cai, thành phố Lào Cai làm nhiệm vụ tại khu vực đường Tôn Thất Thuyết, tổ 07 phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Tổ công tác tiến hành kiểm tra đối với Nguyễn Tuấn Th. Nguyễn Tuấn Th tự lấy từ trong túi đeo giả da ra 01 ví da màu nâu lấy ra 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng ra giao nộp. Nguyễn Tuấn Th khai nhận đó là gói ma túy đá. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng trước sự chứng kiến của anh Đào Văn Huy theo qui định.

Ngoài ra còn tạm giữ của Nguyễn Tuấn Th 01 điện thoại di động hiệu MI màu vàng màn hình cảm ứng có số IMEI: 861365033091617 không có số sim; 01 điện thoại di động đen trắng hiệu NOKIA màu đen có số IMEI: 353681085548097 (đã qua sử dụng) có gắn thẻ sim 0396527981; 01 ví giả da màu nâu; 01 túi đeo giả da màu nâu (đã qua sử dụng); 01 chứng minh nhân dân; 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Tuấn Th Tại kết luận giám định số 199/GĐMT, ngày 23/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,46 (không phẩy bốn mươi sáu) gam các hạt tinh thể rắn, màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Methamphetamine Cáo trạng số 107/KSĐT ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn Thphạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà:Bị cáo Nguyễn Tuấn Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như tóm tắt ở trên và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn Th đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 3 tháng đến 01 năm 06 (sáu) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 ; điểm a, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự xử lý theo quy định của pháp luật.

Tính án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Tuấn Th: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, tang vật thu giữ và kết luận giám định. Do nghiện ma túy nên Khoảng 19 giờ 00 ngày 19/9/2020, Nguyễn Tuấn Th đến phòng trọ của người phụ nữ quen qua mạng nhưng không rõ tên tuổi cùng sử dụng ma túy và được người phụ nữ này cho 01 túi ma túy 0,46 (không phẩy bốn mươi sáu) gam Methamphetamine để về sử dụng. Đi đến khu vực Tôn Thất Thuyết, tổ 7, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai thì bị công an thành phố Lào Cai kiểm tra hành chính và Nguyễn Tuấn Th bị bắt cùng toàn bộ tang vật.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trái phép chất ma túy” Tội phạm được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Do vậy hội đồng xét xử cần phải áp dụng một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể giáo dục bị cáo trở thành con người sống có ích cho xã hội đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu Theo bản án số 46/HSST ngày 09/6/2004 của Tòa án nhân dân thị xã Lao Cai xử phạt 21 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy đã được xóa án tích. Ngoài ra bị cáo còn có 01 tiền án về tội “trộm cắp tài sản”. Theo Bản án số 41/2016/HSST ngày 13/4/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai tuyên phạt Nguyễn Tuấn Th 01 năm 3 tháng tù giam), bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù về địa phương sinh sống chưa được xóa án tích do chưa chấp hành xong về phần dân sự nên lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 0,46 (không phẩy bốn sáu) gam chất ma túy Methamphetamine đã trích mẫu giám định còn 0,40 ( không phẩy bốn mươi) gam chất ma túy Methamphetamine được niêm phong bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai; Xét thấy đây thuộc danh mục các chất Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự là phù hợp.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen có số IMEI:

353681085548097 (đã qua sử dụng) không có thẻ sim ;01 (một) túi đeo giả da màu nâu; 01 (một) ví giả da màu nâu; 01 (một) chứng minh nhân dân; 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Tuấn Th là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu MI màu vàng có số IMEI: 861365033091617 không có thẻ sim cần tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Đối với người phụ nữ đã cho ma túy cho bị cáo ngoài lời khai của bị cáo Nguyễn Tuấn Th ra không có tài liệu nào khác làm rõ nên không đề cập xử lý trong vụ án này.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1điều 51; điểm h khoảm 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn Th 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam ngày 20/9/2020.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 ; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,40 (không phẩy bốn mươi) gam chất ma túy Methamphetamine được niêm phong bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Một mặt của bì thư có ghi vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Tuấn Thcó hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện thu giữ ngày 19/9/2020 tại đường Tôn Thất Thuyết, tổ 7, phường Lào Cai, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Theo biên bản giao nhận của Chi cục Thi hành án ngày 27/11/2020.

Tạm giữ của bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu MI màu vàng có số IMEI: 861365033091617 (đã qua sử dụng) không có thẻ sim để đảm bảo cho việc thi hành án. Theo biên bản giao nhận của Chi cục Thi hành án ngày 27/11/2020.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tuấn Th 01 (một) ví giả da màu nâu; điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen có số IMEI: 353681085548097 (đã qua sử dụng) có gắn thẻ sim 0396527981; 01 (một) túi đeo giả da màu nâu; 01 (một) chứng minh nhân dân; 01 (một) thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Tuấn Th Theo biên bản giao nhận của Chi cục Thi hành án ngày 27/11/2020.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Tuấn Th phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 107/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;