Bản án 106/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THAH HÓA,TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 106/2021/HS-ST NGÀY 25/01/2021 VỀ TI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố ThAh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 122/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T - Sinh ngày 16/4/2002 tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa:6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; T giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không xác định và bà Hà Thị H; Tiền án: Không, tiền sự: Ngày 04/5/2020 bị Công A thành phố Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo tạm giam từ ngày 06/12/2020. có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Mai Văn T – sn 1961 (vắng mặt) Trú tại: SN 63 Q, phường A, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị T – SN 1985 Trú tại: SN L, phường B, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19h’ngày 02/6/2020, Nguyễn Văn T đi đến trước nhà gia đình ông Mai Văn T ở SN Q, phường A, thành phố T. Q sát thấy cửa cổng mở, không có ai trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T lén đi vào nhà, lên phòng ngủ tần 2, thấy trên giường có 01 điện thoại di động Sam sung Galaxy S8 màu đen và 01 Đ hồ đeo tay Casio, màu đen, nên đã cất giấu trong người rồi bỏ đi. Sau đó, T mang chiếc điện thoại trộm cắp được đến cửa hàng điện thoại bán cho chị Phạm Thị T ở SN L, phường B, thành phố T với giá 400.000đ. Số tiền này T chi tiêu cá nhân hết. Còn chiếc đồng hồ T bỏ lại tại ngôi nhà bảo vệ đường tàu phía Nam ga Thanh Hóa. Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm vật chứng nhưng không thấy.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 208 ngày 04/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố T kết luận: 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Samsung Galaxy S8 trị giá 345.981đ (ba trăm bốn lăm nghìn, chín trăm tám mốt Đ); 01 đồng hồ Casio trị giá 1.140.000đ (Một triệu một trăm bốn mươi nghìn Đ). Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 1.485.981đ (Một triệu bốn trăm tám lăm nghìn, chín trăm tám mốt Đ) Đối với chị Phạm Thị T, do không biết chiếc điện thoại di động mình mua là do T phạm tội mà có nên không phạm tội. Về phần dân sự, chị T yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 400.000đ.

Đối với chiếc ĐTDĐ Sam sung galaxy S8, Cơ quan CSĐT Công A thành phố T đã trả lại cho ông Mai Văn T. Ông T đã nhận lại tài sản và yêu cầu bị cáo phải bồi thường 1.500.000đ giá trị chiếc Đ hồ bị cáo trộm cắp.

Tại bản cáo trạng số: 21/CT-VKSTP ngày 24/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố T đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 BLHS;

Tại phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; Đ thời đề nghị Hội Đ xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 BLHS. Mức hình phạt VKS đề nghị đối với bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù. Ngoài ra VKS còn đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trAh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, tuy tố, xét xử đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại, người liên quan không có ý kiến, khiếu nại gì.

[2] Về hành vi phạm tội:

Khoảng 19 giờ ngày 02/6/2020 tại phố Q, phường A, thành phố T, Nguyễn Văn T đã lén lút trộm cắp chiếc điện thoại di động Sam sung Galaxy S8 có giá trị 345.981đ và chiếc đồng hồ đeo tay Casio trị giá 1.140.000đ của ông Mai Văn T.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều, phù hợp với báo cáo của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội nêu trên của Nguyễn Văn T có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của VKSND thành phố ThAh Hóa truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Lợi dụng chủ tài sản sơ hở trong việc quản lý tài sản bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an chung, cần phải xử lý nghiêm minh.

Mặc dù tài sản bị cáo trộm cắp có tổng trị giá 1.485.981đ (dưới 2 triệu đồng) nhưng ngày 04/5/2020 Nguyễn Văn T bị công A Thành phố T xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Đây là tình tiết định tội theo điểm a khoản 1 Điều 173 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 – BLHS vì bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Căn cứ vào nhân thân, mức độ hành vi phạm tội thấy rằng: Bị cáo tuổi đời còn trẻ, nhưng không chịu khó làm ăn, thích hưởng thụ, bản thân có một tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản, nhưng không lấy đó làm bài học cho mình mà vẫn lao vào con đường phạm tội. Mặt khác, trong quá tình điều tra, do bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên được Cơ quan điều tra cho tại ngoại và thực hiện theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Tuy nhiên, bị cáo đã bỏ đi khỏi địa phương và sau đó bị bắt theo lệnh truy nã. Điều đó cho thấy bị cáo không có khả năng tự cải tạo, xem thường pháp luật. Do đó, khi xem xét về hình phạt cần áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nên cho bị cáo mức án thấp của khung hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo thành người có ích cho xã hội.

[4] Về phần dân sự: Theo báo cáo của bị hại ông Mai Văn T đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy S8 nên ông không có yêu cầu bồi thường gì về chiếc điện thoại. Đối với chiếc Đ hồ đeo tay Casio màu đen, không thu hồi được, ông T yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 1.500.000đ giá trị chiếc đồng hồ bị trộm cắp. Theo kết luận định giá tài sản thì chiếc đồng hồ Casio trị giá 1.140.000đ. Tuy nhiên bị cáo đồng ý bồi thường cho ông T số tiền 1.500.000đ nên chấp nhận. Vì vậy cần buộc bị cáo phải bồi thường cho ông T số tiền 1.500.000đ giá trị chiếc đồng hồ bị trộm cắp.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị T yêu cầu bị cáo phải hoàn trả khoản tiền mua điện thoại di động là 400.000đ. Xét yêu cầu của chị T là hợp pháp, do đó cần buộc bị cáo phải bồi thường cho chị T số tiền 400.000đ.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST và án phí DSST quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 – BLHS; Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/12/2020.

Về phần dân sự:

Buộc bị cáo phải bồi thường cho ông Mai văn T số tiền 1.500.000đ, cho chị Phạm Thị T số tiền 400.000đ Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 106/2021/HS-ST ngày 25/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:106/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;