Bản án 106/2021/HSST ngày 08/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 106/2021/HSST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 72/2021/HSST, ngày 09/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2021/QĐXXST-HS, ngày 24/8/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn T; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 28.3.1998; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chổ ở: khu phố A, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: phụ bếp; Cha: Nguyễn Th; Mẹ: Phan H; Anh, chị, em ruột: Có 03 người; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại khu phố A, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận và có mặt tại phiên tòa.

Ni làm chứng: Trần M, sinh năm 1960; Địa chỉ: khu phố A, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 07.6.2021 Nguyễn T đến khu vực bên hông chợ P, huyện T gặp một thanh niên không rõ nhân thân lai lịch hỏi mua 500.000 đồng được 4 gói ma túy đá, T cất giấu ma túy đá vào trong ví da bọc vào trong lưng quần rồi đi về lại thị trấn L nhằm mục đích sử dụng. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày tổ tuần tra Công an thị trấn Liên Hương tuần tra trên đường N thuộc A, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận phát hiện Nguyễn T đang tàng trữ chất ma túy. Thu giữ tại vị trí lưng quần phía trước T đang mặc 01 ví màu đen bên trong có 4 gói nylon không màu được hàn kín (01 gói kích thước 01 x 04cm, 01 gói kích thước 01 x 3,5cm, 02 gói kích thước 01 x 3cm) bên trong 04 gói nylon đều chứa tinh thể màu trắng, T khai tinh thể màu trắng là ma túy đá cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Thu giữ của T 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh và 800.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 732/KLGĐ-PC09 ngày 14.6.2021 của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Mẫu M (được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 01) gửi giám định có khối lượng 0,5767 gam là Methamphetamine.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số: 95/QĐ/KSĐT/VKS/HS, 08/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong.

Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn T từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” , thời hạn từ tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 ví da màu đen, 04 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,4913 gam mẫu M còn lại sau giám định.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh và số tiền 800.000 đồng tại biên lai số 0002875 ngày 25.6.2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phong.

Lời nói sau cùng: Bị cáo T xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra – Công an huyện Tuy Phong, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 95/QĐ/KSĐT/VKS–HS, ngày 08/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong đã truy tố. Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có căn cứ để xác định: Đây là vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xảy ra vào khoảng 19 giờ ngày 07/6/2021 tại khu phố A, thị trấn L, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận do Nguyễn T đang tàng trữ Methaphetmine có khối lượng 0,5 767 gam để sử dụng thì bị phát hiện.

Do đó, cáo trạng số 95/QĐ/KSĐT/VKS –HS, ngày 08/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong truy tố bị cáo Nguyễn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước, là một trong những nguyên nhân gây ra tệ nạn xã hội và làm lây truyền các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho tính mạng và sức khỏe cộng đồng, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục các bị cáo trở thành người tốt, công dân có ích cho xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[5] Đối với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận toàn bộ.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 ví da màu đen, 04 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,4913 gam mẫu M còn lại sau giám, đây là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh và số tiền 800.000 đồng thu giữ của bị cáo, do không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho T, do không rõ lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn T 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 ví da màu đen được niêm phong trong phong bì số 02. Tịch thu tiêu hủy 04 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,4913 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm trong phong bì số 732.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh được niêm phong trong phong bì số 03 và số tiền 800.000 đồng tại biên lai số 0002875 ngày 25.6.2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phong.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/7/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Tuy Phong và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phong).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 106/2021/HSST ngày 08/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:106/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;