Bản án 106/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 106/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Thái Thanh T, sinh năm 1999 tại Bình Phước; nơi cư trú tổ 02, khu phố 4, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Thái Ngọc P, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1973; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại “có mặt tại phiên tòa”.

Ni bị hại:

Anh Lê Tiến D, sinh năm 1997; nơi cư trú thôn 3, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai “vắng mặt”.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Hoàng Đình C, sinh năm 2002; nơi cư trú thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”;

Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1973; nơi cư trú khu phố 4, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”;

Anh Thái Ngọc P, sinh năm 1973; nơi cư trú khu phố 4, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”;

Anh Bùi Văn D, sinh năm 1981; nơi cư trú thôn X, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa “vắng mặt”.

Ni đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Đình C:

Bà Vũ Thị T; nơi cư trú thôn Đ, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ 00 ngày 28/12/2018, Thái Thanh T đến kí túc xá trường Cao đẳng Công nghiệp cao su, thuộc khu phố 4, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước thì gặp anh Lê Tiến D. T nhờ D mượn xe mô tô để chở T đi công việc thì D đồng ý. Sau đó, D mượn xe mô tô biển số 36B6-048.15 của anh Hoàng Đình C chở T đến phòng trọ của anh họ tên Đ (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tại phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước chơi. Tại đây, T để anh D ở lại chơi và hỏi mượn xe môtô biển số 36B6-048.15 đi mua đồ thì anh D đồng ý. Sau khi mượn được xe mô tô biển số 36B6-048.15, T nảy sinh ý mang xe mô tô biển số 36B6-048.15 đi cầm để lấy tiền tiêu xài cá nhân. T điều khiển xe môtô biển số 36B6-048.15 đến gửi tại phòng trọ của T và Đ (chưa rõ nhân thân, lai lịch) và rủ T và Đ đến phòng trọ của Đ để nhậu. Sau khi nhậu xong, T và D ngủ lại ở phòng trọ của Đ. Đến sáng hôm sau, D nói T trả lại xe môtô biển số 36B6-048.15 để mang về trả cho C thì T hẹn chiều sẽ mang xe về trả. Ngày 29/12/2018, T mang xe môtô biển số 36B6-048.15 đi cầm cho một người tên là M (chưa rõ nhân thân, lai lịch) được số tiền 4.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết. Ngày 26/3/2019, anh D đã đến Công an phường T, thành phố Đ tố cáo T.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KLĐG ngày 29/3/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 36B6-048.51, số máy JA39E0171000, số khung 390HY171012, đã qua sử dụng; còn hoạt động bình thường, không thu hồi được xe, trị giá 10.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 109/CT-VKS ngày 06 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo Thái Thanh T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Thái Thanh T mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận số tiền bồi thường tương ứng với giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo T tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng số 109/CT-VKS ngày 06 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với kết luận điều tra; biên bản định giá tài sản, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra C khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên sau khi nhờ anh Lê Tiến D hỏi mượn anh Hoàng Đình C chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 36B6-048.51 chở đi công việc. Đến 15 giờ ngày 29/12/2018 Thái Thanh T đã đem cầm cố cho một người tên M (chưa rõ nhân thân, lai lịch) để lấy số tiền 4.000.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KLĐG ngày 29/3/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 36B6-048.51, số máy JA39E0171000, số khung 390HY171012, đã qua sử dụng; còn hoạt động bình thường, không thu hồi được xe, trị giá 10.500.000 đồng.

[3] Căn cứ vào hành vi bị cáo đã thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 10.500.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Bị cáo là người đã thành niên, khi phạm tội bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự tin tưởng của chủ sở hữu trong việc giao tài sản để chiếm đoạt là hành vi phạm tội. Nhưng vì mục đích tiêu xài cá nhân mà bị cáo cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục thiệt hại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bị hại cũng có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt.

Xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo để giáo dục mà chỉ cần lên cho bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, cho bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

Đối với đối tượng tên M là người nhận cầm xe cho bị cáo, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Đ chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên cần tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ để có căn cứ xử lý theo quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Hoàng Đình C đã được mẹ ruột của bị cáo T là bà Nguyễn Thị V bồi thường số tiền 10.500.000 đồng tương ứng với giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Cả người bị hại anh Lê Tiến D và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Hoàng Đình C không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, bà V cũng không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại số tiền trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Thái Thanh T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Thái Thanh T 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tuyên giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự

3. Về trách nhiệm dân sự:

Do các bên không ai có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết C khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 106/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:106/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;