Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 106/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 581/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 210/2019/QĐST-HNGĐ ngày 04/7/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Bà Hoàng Thị L, sinh năm 1994

Địa chỉ: Thôn Nha Hố 1, xã Nh, huyện N, tỉnh N.

- Bị đơn: Ông Lê Quốc B, sinh năm 1978.

Địa chỉ: 06/30, Khu phố 5, phường Thống Nh, thành phố B, tỉnh Đ.

(Bà L có đơn xin xét xử vắng mặt; Ông Lê Quốc B vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Hoàng Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và Ông Lê Quốc B tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 01/8/2017 tại UBND phường Thống Nh, thành phố B, tỉnh Đ.

Quá trình chung sống hai người chỉ hạnh phúc được thời gian đầu, đến tháng 10/2017 thì giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ khác biệt trong quan niệm sống giữa hai người, làm tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, mâu thuẫn ngày càng lớn dần, ông B không quan tâm đến bà, không có trách nhiệm với vợ con. Hai vợ chồng bà đã ly thân từ tháng 02/2018 đến nay. Hiện nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông B.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Lê Hoàng Bảo Ng, sinh ngày 19/10/2017. Ly hôn Bà L xin được nuôi dưỡng cháu Ng và không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà L khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn Ông Lê Quốc B: đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông B vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không có văn bản giải trình, không đến Tòa án làm việc và tham gia phiên tòa. Vì vậy, không có lời trình bày.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà Hoàng Thị L được ly hôn với ông Lê Quốc B.

- Về quan hệ con chung: Có 01 con chung là cháu Lê Hoàng Bảo Ng, sinh ngày 19/10/2017. Bà L khai hiện nay cháu Ng đang ở cùng bà tại Ninh Thuận và do bà trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng và từ thời điểm hai vợ chồng ly thân đến nay, ông B cũng không cấp dưỡng nuôi con cho bà lần nào. Do đó, nhận thấy cháu Ng còn bé, cần có mẹ chăm sóc và để ổn định điều kiện về tinh thần cho cháu, cần thiết áp dụng các Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của bà L, giao cháu Ng cho Bà L nuôi dưỡng và chăm sóc. Ông B được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, Bà L xác định về tài sản chung cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông B vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông B, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí: Bà Hoàng Thị L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Bà Hoàng Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Quốc B; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định Bà L là nguyên đơn còn ông B là bị đơn trong vụ án.

- Ông Lê Quốc B có địa chỉ cư trú hiện nay tại số: 06/30, Khu phố 5, phường Thống Nh, thành phố B, tỉnh Đ. Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ.

- Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Quốc Bảo tại địa chỉ này, nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, tiếp cận, công khai chứng cứ; hòa giải và tham gia phiên tòa. Ngoài ra, vào ngày 04/07/2019, Bà L có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt ông B và bà Lý.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Ông Lê Quốc B tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 01/8/2017 tại UBND phường Thống Nh, thành phố B, tỉnh Đ. Quá trình chung sống hai người chỉ hạnh phúc được thời gian đầu, đến tháng 10/2017 thì giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, xuất phát từ khác biệt trong quan niệm sống giữa hai người, làm tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, mâu thuẫn ngày càng lớn dần, ông B không quan tâm đến bà, không có trách nhiệm với vợ con. Hai vợ chồng bà đã ly thân từ tháng 02/2018 đến nay. Hiện nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông B. Xét yêu cầu ly hôn của Bà L là có cơ sở chấp nhận vì theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng, trong quá trình chung sống nhiều năm; vợ chồng Bà L và ông B chung sống với nhau không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn rất nghiêm trọng. Theo Biên bản xác minh nơi cư trú của Công an phường Thống Nh và Biên bản xác minh mâu thuẫn vợ chồng của Ủy ban nhân dân phường Thống Nh thì hiện nay ông B có cư trú tại và sinh sống tại địa chỉ: 6/30, Khu phố 5, phường Thống Nh, thành phố B, tỉnh Đ đồng thời xác nhận việc giữa hai vợ chồng có mâu thuẫn với nhau mà nguyên nhân là xuất phát từ vấn đề kinh tế và gia đình gặp khó khăn. Mặt khác, quá trình làm việc, mặc dù ông B đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần, nhưng đều cố ý vắng mặt, thể hiện việc không có ý định muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, thể hiện việc mâu thuẫn trong tình cảm vợ chồng giữa ông B và Bà L là có thật, đời sống chung không có, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Hoàng Thị L được ly hôn với ông Lê Quốc B.

[3]. Về con chung: Có 01 con chung là cháu Lê Hoàng Bảo Ng, sinh ngày 19/10/2017. Bà L khai hiện nay cháu Ng đang ở cùng bà tại Ninh Thuận và do bà trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng và từ thời điểm hai vợ chồng ly thân đến nay, ông B cũng không cấp dưỡng nuôi con cho bà lần nào. Do đó, nhận thấy cháu Ng còn bé, cần có mẹ chăm sóc và để ổn định điều kiện về tinh thần cho cháu Ng, xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của bà Lý, giao cháu Ng cho Bà L nuôi dưỡng và chăm sóc. Ông B được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, Bà L xác định về tài sản chung cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông B vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông B, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Hoàng Thị L phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị L được ly hôn với ông Lê Quốc B.

Về con chung: Giao cháu Lê Hoàng Bảo Ng, sinh ngày 19/10/2017 cho bà Hoàng Thị L trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Ông B được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn, Bà L xác định về tài sản chung cũng như nợ chung cả hai đều không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên. Do ông B vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của ông B, nên sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Hoàng Thị L phải nộp 300.000đ án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004404 ngày 20/03/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Bà L đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm

Bà Hoàng Thị L và Ông Lê Quốc B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:106/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;