Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 106/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 30 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 290/2019/TLST-HNGĐ ngày 02/8/2019 về việc “Không công nhận quan hệ vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 262/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trung L, sinh năm: 1971; (có mặt)

Nơi cư trú: ấp 4, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.

* Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1975; (vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp 4, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông Nguyễn Trung L trình bày:

-Về hôn nhân: Ông L và bà N kết hôn vào năm 1994, hôn nhân do tự nguyện. Ông L cho rằng sau khi cưới nhau ông bà có đến ủy ban nhân dân xã Phong Mỹ để đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, do thời gian đã lâu nên ông đã làm thất lạc giấy chứng nhận kết hôn. Ông có đến Ủy ban nhân dân xã Phong Mỹ để trích lục bản sao giấy đăng ký kết hôn nhưng ủy ban có văn bản trả lời là không có thông tin về việc đăng ký kết hôn giữa ông và bà N. Sau khi cưới nhau ông bà sống cùng gia đình bà N tại xã Long Mỹ, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu ông bà sống hạnh phúc nhưng đến năm 2006 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau. Ông bà đã ly thân từ năm 2006 đến nay. Hiện nay tình cảm với ông L không còn, không thể chung sống với nhau được nữa vì vậy ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà N.

- Về con chung: Quá trình chung sống, ông bà có một con chung tên Nguyễn Thị Bích V, sinh ngày 20/9/1995. Con chung đã thành niên, tự chăm sóc bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai, biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay bị đơn bà Nguyễn Thị N trình bày:

-Về hôn nhân: Bà thống nhất với lời trình bày của ông L về thời gian và điều kiện kết hôn. Hiện nay bà cũng không cung cấp chứng cứ về việc bà và ông N có đăng ký kết hôn với nhau, nên yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Hiện nay tình cảm không còn, không thể chung sống với nhau được nữa vì vậy bà cũng đồng ý ly hôn với ông L.

- Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có một con chung tên Nguyễn Thị Bích V, sinh ngày 20/9/1995. Con chung đã thành niên, tự chăm sóc bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Trung L khởi kiện xin ly hôn với bà Nguyễn Thị N, bà N hiện đang cư trú tại ấp 4, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre. Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại Điều 28, 35 và 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Tại tòa, ông L và bà N thống nhất ông bà cưới nhau vào năm 1994 và nhớ là có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre. Tuy nhiên, ông bà không cung cấp được giấy chứng nhận kết hôn vì cho rằng đã thất lạc. Trước khi kết hôn, ông L đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã L H còn bà N thì đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre. Qua xác nhận của Ủy ban nhân dân xã P, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre và Ủy ban nhân dân xã L H, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre về việc qua kiểm tra sổ bộ hộ tịch kết hôn không tìm thấy thông tin đăng ký kết hôn giữa ông L và bà N. Qua đó có cơ sở xác định việc kết hôn giữa ông L và bà N không được đăng ký theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân gia đình nên không có giá trị pháp lý và không làm phát sinh quyền, N vụ vợ chồng giữa ông bà. Ông L và bà N đều xác định không thể chung sống với nhau được nữa và đồng ý chấm dứt quan hệ hôn nhân với nhau. Do ông bà không có đăng ký kết hôn, ông L khởi kiện yêu cầu xin ly hôn, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông L và bà N là phù hợp.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có một con chung tên Nguyễn Thị Bích V, sinh ngày 20/9/1995. Con chung hiện đã thành niên, tự chăm sóc bản thân nên Tòa án không xem xét giải quyết về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông L và bà N đều khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Ông L là người khởi kiện nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Trung L, cụ thể:

[1] Về hôn nhân: Không công nhận ông Nguyễn Trung L và bà Nguyễn Thị N là vợ chồng.

[2] Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có một con chung tên Nguyễn Thị Bích V, sinh ngày 20/9/1995. Con chung hiện đã thành niên, tự chăm sóc bản thân nên Tòa án không xem xét giải quyết về việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

[4] Về án phí: Ông Nguyễn Trung L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0005627 ngày 31 tháng 05 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông L đã nộp xong án phí.

[5] Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Trung L và bà Nguyễn Thị N được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

840
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về không công nhận quan hệ vợ chồng

Số hiệu:106/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;