Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 22/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 106/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 22 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên A xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm thụ lý số: 421/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2019, về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/3/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thúy K, sinh năm 1995.

Cư trú: Tổ 19, ấp V, xã T, huyện A, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Bá P, sinh năm 1989.

Cư trú: Ấp B, xã N, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà K có mặt, ông P vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ bà Trần Thị Thúy K trình bày: Quan hệ hôn nhân giữa bà và ông P là do mai mối, được gia đình đồng ý nên tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn vào năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn được ba tháng thì đã không còn chung sống với nhau. Nguyên nhân là do đôi bên không có tình cảm, chỉ vì gia đình mà kết hôn, hai người đã ly thân từ tháng 9/2018 cho đến nay.

Do tình cảm không còn nên bà đã nhiều lần liên lạc với ông P để làm thủ tục ly hôn, ông P đồng ý ly hôn nhưng không đến Tòa án để tham gia giải quyết.

Hiện nay, tình cảm vợ chồng không còn nên bà xin được ly hôn với ông Nguyễn Bá P.

Về quan hệ con chung: Không có con chung.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án tiến hành hòa giải, công khai tài liệu chứng cứ nhưng ông P vắng mặt đến lần thứ hai nên Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được.

Ngày 25/02/2019, ông Nguyễn Bá P có bản tự khai trình bày ý kiến của mình về nội dung yêu cầu khởi kiện của bà K. Qua đó, ông P trình bày quan hệ hệ hôn nhân của ông và bà K đúng như lời bà K đã trình bày, hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh An Giang vào năm 2018. Nguyên nhân ông và bà K không còn chung sống với nhau là vì cả hai không có tình cảm với nhau, sau khi kết hôn được ba tháng thì đã ly thân, cả hai không có liên lạc để hàn gắn tình cảm. Ông đồng ý ly hôn với bà Trần Thị Thúy K.

Về quan hệ con chung: Khôg có con chung.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông P có nhận được tất cả thông báo thụ lý, thông báo về việc công khai chứng cứ nhưng vì bận công việc nên không đến tham dự phiên họp và có đơn yêu cầu không tham gia phiên hòa giải, phiên tòa xét xử.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp cho Tòa án đã được công bố tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ.

Tại phiên toà, bà K bảo lưu ý kiến đã trình bày, không có yêu cầu bổ sung, không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ khác. Ông P vắng mặt nhưng có đơn xin không tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông P theo thủ tục chung.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị Thúy K;

về con chung, tài sản chung, nợ chung xác định không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Hôn nhân của bà K và ông P có đăng ký kết hôn theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Bà K yêu cầu xin được ly hôn, ông P có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại địa phương thuộc ấp B, xã N, huyện a, tỉnh An Giang nên yêu cầu xin ly hôn của bà K được Tòa án thụ lý giải quyết phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình và các Điều 29, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án tiến hành mở phiên họp để hòa giải, công khai chứng cứ và đã tống đạt hợp lệ cho ông P nhưng ông P không đến tham dự nên không tiến hành hòa giải được.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với ông P nhưng ông P vắng mặt và có đơn không tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông P theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà K có yêu cầu xin được ly hôn với ông P, qua các tài liệu chứng cứ, biên bản ghi lời khai của nguyên đơn, bản tự khai của bị đơn về tình trạng hôn nhân; xác định quan hệ hôn nhân của bà K và ông P có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bản thân bà K, ông P không có tình cảm yêu thương, sau khi kết hôn một thời gian ngắn thì đã ly thân, không liên lạc gì với nhau nữa dẫn đến mâu thuẫn trong hôn nhân ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn. Từ đó, yêu cầu xin được ly hôn của bà K đối với ông P là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thúy K.

Về quan hệ con chung: Không có con chung nên không xem xét giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016, bà K phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Các Điều 51, 53, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thúy K.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Thúy K được ly hôn với ông Nguyễn Bá P.

Về án phí: Bà Trần Thị Thúy K phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng mà bà K đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: TU/2016/0011000 ngày 26/12/2018 (bà K đã nộp đủ).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/3/2019) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 106/2019/HNGĐ-ST ngày 22/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:106/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;