Bản án 106/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 106/2018/HS-ST NGÀY 03/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 03 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 102/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2018/QĐXXST-HS ngày 20/9/2018, đối với bị cáo:

Tạ Hải D, sinh ngày 04/8/1980 tại Tuyên Quang Nơi cư trú:Tổ 3, phường N, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tạ Văn Ch và bà Nguyễn Thị Ph; có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn) và 01 con, sinh năm 1999; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 18/5/2016 Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang tỉnh Tuyên Quang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại ngày 09/7/2017; nhân thân: Ngày 18/02/1998, Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/5/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Lương Văn H, sinh năm 1964; nơi cư trú: Tổ 19, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/5/2018, bị cáo Tạ Hải D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22B1-881.22 (xe thuộc sở hữu của Tạ Hải Ph - em ruột bị cáo) chở Lương Văn H (bạn bị cáo) đi cùng sang thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên chơi. Khi đến thành phố Th, tỉnh Thái Nguyên bị cáo và H vào quán nước ven đường ngồi uống nước, sau đó bị cáo bảo H ngồi chờ bị cáo đi có việc, bị cáo điều khiển xe mô tô đến khu vực bến xe khách thành phố Th gặp một người đàn ông (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ) hỏi mua được 01 gói ma tuý gói bằng giấy nilon màu trắng, bên trong có hai gói nhỏ (trong đó có 01 gói được gói bằng giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng ngà và một gói được gói bằng mẩu ống nhựa màu cam hàn kín hai đầu bên trong chứa viên nén màu đỏ) với giá 1.000.000đ (một triệu đồng). Sau khi mua được ma tuý, bị cáo cất giấu vào trong người đi ra chỗ vắng người lấy một ít ra pha chế cho vào 2 xilanh đã chuẩn bị sẵn, số còn lại bị cáo gói lại như cũ rồi cất giấu cùng 02 xi lanh vào trong người. Bị cáo quay lại chỗ H chờ rồi về Tuyên Quang, trên đường về, đi đến khu vực vắng người thuộc tỉnh Thái Nguyên, bị cáo dừng xe lấy 2 xi lanh đã pha sẵn đưa cho H 01 xi lanh cùng tiêm chích vào cơ thể, sau đó bị cáo tiếp tục điều khiển xe về Tuyên Quang. Khoảng 01 giờ ngày 21 tháng 5 năm 2018, khi bị cáo và H đi đến khu vực thuộc tổ 19, phường T, thành phố T thì bị tổ Công tác Công an thành phố Tuyên Quang phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói bằng giấy nilon màu trắng, bên trong chứa 02 gói nhỏ (trong đó có 01 gói được gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà và 01 gói được gói bằng mẩu ổng nhựa màu cam hàn kín hai đầu bên trong chứa viên nén màu đỏ). Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của bị cáo 01 xe mô tô biển kiểm soát 22B1 – 881.00, kèm theo giấy đăng ký mô tô mang tên Tạ Hải Ph (chiếc xe này trong quá trình điều tra, cơ quan điiều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Tạ Hải Ph); 01 điện thoại di động nhãn hiệu ASUS; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo, kết quả dương tính.

Tại kết luận giám định số 225/GĐKTHS ngày 23/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật gửi giám định thu giữ của Tạ Hải D là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 1,460g (một phẩy bốn sáu không gam); viên nén màu đỏ thu giữ của Tạ Hải D gửi giám định là Methamphetamine, là chất ma túy tổng hợp thuộc nhóm ATS; khối lượng 0,105g (không phẩy một không năm gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 104/CT-VKS-TP ngày 13 tháng 9 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Tạ Hải D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Tạ Hải D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Tạ Hải D từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù. Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng, tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Tạ Hải D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Kết luận giám định số 225/GĐKTHS ngày 23/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo Tạ Hải D nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Tạ Hải D tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản xét nghiệm tìm chất ma tuý; tang vật thu giữ; kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 01 giờ ngày 21/5/2018, tại tổ 10, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Tạ Hải D đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,460g (một phẩy bốn sáu không gam) Heroine và 0,105g (không phẩy một không năm gam) Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy là 1,565g (một phẩy năm sáu năm gam).

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có hành vi cất giữ bất hợp pháp 1,460g (một phẩy bốn sáu không gam) Heroine và 0,105g (không phẩy một không năm gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng; hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý; hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo có mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị Ph là người có công với cách mạng (được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng nhì). Vì vậy, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 18/5/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang tỉnh Tuyên Quang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 09/7/2017 bị cáo mới chấp hành xong hình phạt của bản án này, tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa được xoá án tích nên thuộc trường hợp “Tái phạm”, do vậy cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên, không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo và đối tượng Lương Văn H, ngày 14/6/2018 Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt hành chính (phạt tiền, mỗi người 500.000đ), nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với người đàn ông theo bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực bến xe khách thành phố Th nhưng không xác định được họ tên, địa chỉ không có căn cứ để xử lý, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của bị cáo Tạ Hải D và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa Heroine và Methamphetamine là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng nên tiêu huỷ; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 điện thoại di động nhãn hiệu ASUS (đều đã cũ hỏng) là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc thực hiện tội phạm cần trả lại cho bị cáo.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Bị cáo Tạ Hải D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: bị cáo Tạ Hải D 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 21/5/2018.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong có chứa ma tuý, mặt sau phong bì trên các mép dán có chữ ký của Tạ Hải D và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

- Trả lại cho bị cáo Tạ Hải D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu ASUS, đã qua sử dụng.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 02 /10 /2018.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Tạ Hải D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 106/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:106/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;