Bản án 1054/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 1054/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 552/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 151/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim X– sinh năm 1980; địa chỉ thường trú: Số H, Đường A, Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ tạm trú: Số H1 Đường A, Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

Bị đơn: Ông Trịnh Hoàng N – sinh năm 1975; địa chỉ: Số H2, Đường A, Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn ly hôn ngày 14/5/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn trình bày: Bà và ông Trịnh Hoàng N tự nguyện chung sống, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn vào ngày 13/9/2006. Quá trình chung sống, bà không có hạnh phúc vì vợ chồng bất đồng ý kiến, ông N không lo làm ăn, chăm lo cho cuộc sống gia đình mà nhiều lần bài bạc, đá gà gây nợ bên ngoài dẫn đến vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên gây gỗ, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 11/2018. Do không thể tiếp tục chung sống nên bà đã nộp đơn ly hôn vào tháng 03 năm 2019 nhưng đã rút đơn lại để ông N thay đổi, vợ chồng đoàn tụ nhưng vẫn không có kết quả. Nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, cuộc sống chung rất mệt mỏi, áp lực nên bà yêu cầu được ly hôn để ổn định cuộc sống và chăm lo cho các con.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trịnh Xuân I – sinh ngày 10/7/2005 và Trịnh Xuân Y – sinh ngày 25/11/2014. Từ khi có con cho đến hiện tại, bà là người trực tiếp chăm sóc và dạy dỗ các con và ông N không có thời gian quan tâm, lo lắng cho các con nên nếu ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà xác nhận không có.

Bị đơn, ông Trịnh Hoàng N vắng mặt và không có ý kiến gì dù đã được Tòa án thực hiện thủ tục tống đạt, niêm yết hợp lệ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phát biểu ý kiến nhận xét về việc chấp hành pháp luật về tố tụng dân sự: Quá trình thụ lý đến tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; nguyên đơn chấp hành tốt quy định pháp luật về tố tụng, chấp hành đúng nội quy phiên tòa, bị đơn vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Quá trình chung sống, hai bên xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cuộc sống chung không hạnh phúc. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện ly hôn, bị đơn cư trú tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự có mặt của Viện kiểm sát và đương sự tại phiên tòa:

[2.1] Do Tòa án có thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2.2] Về sự có mặt của đương sự tại phiên tòa: Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhưng bị đơn vắng mặt không lý do, cũng không có ý kiến gì. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án không tiến hành hòa giải được vụ án và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 133/2006 quyển số 01/P09, đăng ký ngày 13/9/2006 tại Ủy ban nhân dân phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh thì hôn nhân của hai bên đương sự là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Cuộc sống vợ chồng giữa hai bên không hạnh phúc do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, không có sự chung sức, chung lòng để cùng nhau nuôi dạy các con và xây dựng gia đình hạnh phúc. Ngoài ra, nguyên đơn đã từng rút đơn yêu cầu ly hôn để vợ chồng sắp xếp, xây dựng lại hạnh phúc gia đình nhưng vẫn không khắc phục được. Về phía bịđơn, Toà án đã nhiều lần triệu tập nhưng không đến Tòa, cũng không có ý kiến gì chứng tỏ sự thiếu thiện chí trong việc mong muốn giải quyết mâu thuẫn gia đình để vợ chồng đoàn tụ. Theo công văn số 161/UBND ngày 31 tháng 7 năm 2019 thì Ủy ban nhân dân Phường C, quận T không có tiếp nhận đơn thư về tranh chấp mâu thuẫn gia đình giữa hai đương sự, đồng thời không có ý kiến gì về trường hợp này. Xét thấy, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống gia đình không hạnh phúc nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trịnh Xuân I – sinh ngày 10/7/2005 và Trịnh Xuân Y – sinh ngày 25/11/2014. Nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy cả hai con đang được nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng và bản thân trẻ I cũng có nguyện vọng ở với mẹ, do đó để đảm bảo sự phát triển ổn định của trẻ Hội đồng xét xử chấp nhận giao 02 con chung cho nguyên đơn tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc.

Về mức cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn khai không có, bị đơn vắng mặt không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;

- Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Kim X.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim X được ly hôn với ông Trịnh Hoàng N.

1.2 Về con chung: Bà Nguyễn Thị Kim X được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung tên Trịnh Xuân I – sinh ngày 10/7/2005 và Trịnh Xuân Y – sinh ngày 25/11/2014. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông Trịnh Hoàng N do bà X chưa có yêu cầu.

Khi có lý do chính đáng mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con 1.3 Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai không có, bị đơn vắng mặt không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) do bà Nguyễn Thị Kim X chịu, được cấn trừ vào số tiền đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2018/00xxxx ngày xx/x/201x của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

4. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án hoặc bản sao án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1054/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1054/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;