Bản án 105/2021/HSST ngày 11/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 105/2021/HSST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 97/2021/HSST ngày 28 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2021/QĐXXST ngày 26/4/2021 đối với bị cáo:

Phạm Trường Th, giới tính: Nam, tên gọi khác: Không, sinh năm 1978, HKTT và chỗ ở: X, Y, Z, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Phạm Văn Tr (đã chết); con bà: Nguyễn Thị Ng; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ: Nguyễn Thị Thoan, có 01 con sinh năm 2007.

Tiền án, tiền sự: 02 tiền án và 06 tiền sự:

- Bản án số 656/HSST ngày 08/5/1998, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt Phạm Trường Th 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản của công dân; ra trại ngày 28/9/1999. Qua xác minh, Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội đã ủy thác cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ thi hành đối với Phạm Trường Th khoản phải nộp 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Kết quả xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ thể hiện: Phạm Trường Th chưa nộp án phí HSST. (chưa được xóa án tích)

- Bản án số 155/2017/HSST ngày 19/6/2017, Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xử phạt Phạm Trường Th 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 22/02/2017; ra trại ngày 22/01/2019. Kết quả xác minh thi hành án thể hiện: Phạm Trường Th đã nộp án phí hình sự sơ thẩm. (đã xóa án tích) Tiền sự: 06 tiền sự (đều đã hết thời hiệu) - Ngày 05,15,20/9/2000, bị Công an phường Yên Phụ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản;

- Ngày 15/01/2001, bị đưa đi cơ sở giáo dục;

- Ngày 18/01/2003, bị đưa đi cai nghiện bắt buộc;

- Tháng 3/2012, bị đưa đi cai nghiện bắt buộc.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ ngày 22/02/2021; tạm giam từ ngày 28/02/2021 đến nay tại Trại giam số 2 – Công an Thành phố Hà Nội.

Bị hại: Chị Hoàng Phương M, sinh nă 1996, trú tại: X, Y, Z, Hà Nội (Vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 22/02/2021, chị Hoàng Phương M (sin năm 1996, trú tại: X, Y, Z, Hà Nội) điều khiển chiếc xe máy điện nhãn hiệu OSAKAR màu đỏ đen, BKS: 29MĐ2-037.52, SK: RMPYADGNAFVM10612, SM: 450160210256 đến cửa hàng quần áo ở địa chỉ số 342 Nguyễn Văn Cừ, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội làm việc và dựng xe tại vỉa hè trước cửa hàng. Tại đây, chị Văn Thị H (sinh năm 2000, trú tại: Tổ 5, phường Long Biên, quậnLong Biên, Hà Nội) là đồng nghiệp của chị M đã mượn chiếc xe máy điện đi ra bưu điện gửi đồ cho khách rồi quay lại dựng xe tại trước cửa hàng theo hướng đầu xe hướng vào phía cửa hàng, đuôi xe hướng ra ngoài đường. Do không biết khóa cổ, khóa càng xe nên khi trả xe, chị H đã nhờ chị M ra khóa xe nhưng chị M đang bận nên chưa thực hiện ngay được.

Khoảng 11 giờ 45 phút cùng ngày, Phạm Trường Th một mình bắt xe buýt số 10a đi từ trạm trung chuyển Long Biên đến đoạn cầu vượt Nguyễn Văn Cừ. Xuống xe, Th đi bộ đến cửa hàng bán quần áo số 342 Nguyễn Văn Cừ quan sát thấy 01 chiếc xe máy điện màu đỏ đen của chị Hoàng Phương M đang dựng tại vỉa hè trước quán, không khóa cổ nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên. Th đi qua đi lại thấy không có ai nên đã lấy từ trong người chiếc chìa khóa xe (được Th nhặt ở ngoài đường từ trước đó) tra vào ổ khóa xe máy điện nhưng không mở được. Th liền dắt bộ chiếc xe máy điện đi qua cửa nhà anh Trần Anh Tuân (sinh năm 1981, địa chỉ: Số 338 Nguyễn Văn Cừ, Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội) thì bị anh Tuân phát hiện, hô hoán và truy đuổi đến trước cửa số nhà 326 Nguyễn Văn Cừ thì bị bắt giữ cùng chiếc xe máy điện. Cùng lúc đó, nghe thấy tiếng “cạch” của chân trống xe, chị M liền đi ra kiểm tra nhưng không thấy chiếc xe đâu nên nhìn sang phía bên trái thấy anh Tuân và một số người dân đang giữ Th cùng chiếc xe máy điện. Sau đó, chị M đã trình báo Công an phường Bồ Đề đến hiện trường, thu giữ tang vật và đưa Phạm Trường Th về trụ sở để giải quyết.

Tang vật thu giữ gồm:

- 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu OSAKAR màu đỏ đen, BKS: 29MĐ2- 037.52, SK: RMPYADGNAFVM10612, SM: 450160210256;

- 01 chiếc chìa khóa xe máy điện, có chữ momenm.

Ngoài ra, chị Hoàng Phương M còn tự nguyện giao nộp cho cơ quan công an 01 USB chứa đoạn video ghi lại nội dung sự việc.

Theo Kết luận định giá tài sản số 53 ngày 23/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên, xác định: 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu OSASKAR màu đỏ đen, BKS: 29MĐ2-037.52 trị giá: 6.550.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận như trên.

Đối với 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu OSAKAR màu đỏ đen, BKS:

29MĐ2-037.52, SK: RMPYADGNAFVM10612, SM: 450160210256: Quá trình điều tra xác định chiếc xe được đăng ký chính chủ mang tên Đỗ Quỳnh Ngân. Chị Ngân khai: Chị mua chiếc xe trên từ năm 2016 nhưng sau đó không có nhu cầu sử dụng nên đã bán lại cho chị Hoàng Phương M (giao dịch được thực hiện bằng lời nói, không lập giấy tờ mua bán). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe trên cho chị Hoàng Phương M. Chị M đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự.

Đối với 01 chiếc chìa khóa xe máy điện, có chữ momenm thu giữ của Phạm Trường Th: Quá trình điều tra xác định, chiếc chìa khóa trên được Th nhặt được trên đường (không xác định được vị trí) trước đó khoảng 05 – 07 ngày, sau đó bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên chuyển Tòa án nhân dân quận Long Biên xem xét, xử lý.

Tại Bản cáo trạng số 113/CT-VKS ngày 27/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố bị cáo Phạm Trường Th về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Trường Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo theo đúng như nội dung đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Trường Th đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về hình phạt: Nhân thân bị cáo có 06 tiền, 02 tiền án, trong đó có 01 tiền án chưa được xóa án tích, xác định nhân thân xấu và bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về hình phạt: đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng đối với bị cáo do không có việc làm, thu nhập ổn định.

Về dân sự: Bị hại không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa xe máy điện, có chữ momenm thu giữ của Phạm Trường Th vì là công cụ phạm tội.

Đối với 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu OSAKAR màu đỏ đen, BKS:

29MĐ2-037.52, SK: RMPYADGNAFVM10612, SM: 450160210256: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe trên cho chị Hoàng Phương M là có căn cứ.

Nói lời sau cùng, bị cáo biết là sai, vi phạm pháp luật, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã khai báo và xuất trình các tài liệu chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, bản kết luận định giá tài sản, lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 12 giờ ngày 22/02/2021, tại trước cửa hàng quần áo ở địa chỉ số 342 Nguyễn Văn Cừ, phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội, Phạm Trường Th có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Hoàng Phương M 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu OSASKAR màu đỏ đen BKS: 29MĐ2-037.52 trị giá: 6.550.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Phạm Trường Th đã đủ dấu hiệu cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; làm mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo đã đủ tuổi thành niên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra. Bị cáo còn có 06 tiền án, 02 tiền án, trong đó có 01 tiền án chưa được xóa án tích, Hội đồng xét xử xác định bị cáo có nhân thân xấu và bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Căn cứ theo tính chất tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, nhân thân của bị cáo và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo bị áp dụng, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một hình phạt tù nghiêm khắc trong khung hình phạt, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy đinh tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa xe máy điện, có chữ momenm thu giữ của Phạm Trường Th vì là công cụ phạm tội.

Đối với 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu OSAKAR màu đỏ đen, BKS:

29MĐ2-037.52, SK: RMPYADGNAFVM10612, SM: 450160210256: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe trên cho chị Hoàng Phương M là có căn cứ.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên đề nghị áp dụng hình phạt tù là hình phạt chính, không áp dụng hình phạt bổ sung, về dân sự và xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Trường Th phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

1. Về hình phạt:

Áp dụng Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Trường Th 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/02/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa xe máy điện, có chữ momenm thu giữ của Phạm Trường Th (hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/5/2021).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 105/2021/HSST ngày 11/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:105/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;