Bản án 105/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

         TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 105/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2020/HSST-QĐ ngày 29 tháng 4 năm 2020, đối với:

1. Bị cáo: Nguyễn Quang N, sinh năm 1991, tại Bà Rịa-Vũng Tàu. Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: lớp 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Quang Ng và mẹ: Võ Thị Phương Th; Vợ, con: không có;

Tiền sự: không.

Tiền án: Bản án số 01/2011/HS-ST ngày 19-01-2011 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt bị cáo 09 năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Nhân thân: Quyết định số 09/QĐ-XPHC ngày 29-4-2010 của Công an xã L, huyện Đ phạt 1.5000.000đ về hành vi gây rối trật tự công cộng.

Bị cáo bắt tạm giam ngày 28 tháng 12 năm 2019. (có mặt)

2. Người có quyền lợi và nghãi vụ liên quan:

- Công ty Tài chính TNHH HD S. Địa chỉ: 2xx đường P, Phường S, quận B, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu Nh - Tổng Giám đốc; người đại diện hợp pháp: Ông Trần Quốc Ch - Trưởng nhóm thu hồi nợ. (có mặt)

- Chị Nguyễn Thị Phương A, sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (có mặt)

3. Người bào chữa cho bị cáo, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của chị Nguyễn Thị Phương A: Luật sư Đỗ Phú K - Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 28-12-2019, Nguyễn Quang N điều khiển xe mô tô biển số 72H1- 319.36 đi Đồng Nai thăm bạn gái, nhưng do hai người giận nhau nên N đi nhậu một mình tại một quán ở thành phố B, tỉnh Đồng Nai gần ngã tư V. Khi N đang nhậu thì có đối tượng tên Th (không rõ lai lịch) nhậu với bạn ở bàn kế bên sang làm quen và mời N sử dụng ma túy. Sau đó, Th gợi ý bán ma túy cho N thì N đồng ý mua 04 gói, với giá 1.200.000đ. Sau đó thì N điều khiển xe mô tô về thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đến khoảng 23 giờ 45 phút, khi N đang lưu thông trên đường 3/x, thuộc Phường M1, thành phố V thì bị cơ quan chức năng kiểm tra phát hiện N có hành vi tàng trữ 04 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu, trong suốt. N khai là ma túy tổng hợp mua của Th để sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 49/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 03 tháng 01 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết luận:

“Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt chứa trong 04 (bốn) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an thành phố V – Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Nguyễn Văn Th, Lê Tiến D, Nguyễn Quang N, Lê Văn T gửi đến giám định có tổng khối lượng 1,8271 gam, là ma túy, loại Methamphetamine”.

Vật chứng và tài sản thu giữ gồm: 04 gói ma túy sau khi giám định được niêm phong số 49, ngày 03-01-2020 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen; 01 vật nhọn bằng kim loại dài 30cm; 01 xe mô tô biển số 72H1-319.xx. Hiện đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V quản lý chờ xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 72H1-319.36 do Nguyễn Quang N đứng tên sở hữu hiện đang thế chấp tại Công ty Tài chính TNHH HD S, Đại diện Công ty yêu cầu được xử lý để thu hồi nợ; chị Nguyễn Thị Phương A (chị của N) cho rằng chiếc xe do chị mua trả góp cho N đứng tên đi làm nên xin nhận lại.

Bản cáo trạng số 61/CT-VKSTPVT ngày 09-3-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, truy tố Nguyễn Quang N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Luật sư bào chữa cho bị cáo, bảo vệ cho chị Phương A: Thống nhất về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo mà Kiểm sát viên đã đề nghị. Tuy nhiên cũng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết điều kiện phạm tội của bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và bị đối tượng Th dụ dỗ cho sử dụng rồi bán ma túy cho bị cáo dẫn đến phạm tội tàng trữ ma túy. Đối với xe mô tô hiệu Honda biển số 72H1-319.xx do chị Phương A mua cho bị cáo và chiếc điện thoại Oppo là của bị cáo không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy nên đề nghị giao trả cho bị cáo.

- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất với ý kiến của Luật sư, xin giảm nhẹ hình phạt, xin được nhận lại chiếc xe mô tô biển số 72H1-319.xx và điện thoại Oppo.

- Chị Nguyễn Thị Phương A thống nhất ý kiến của Luật sư bảo vệ và không có ý kiến, yêu cầu gì trong vụ án.

- Đại diện Công ty Tài chính HD S xác nhận bị cáo N có vay 24.000.000đ của Công ty để mua và thế chấp xe mô tô biển số 72H1-319.xx. Hiện gia đình N đã thanh toán toàn bộ nợ nên không có ý kiến yêu cầu gì trong vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Quang N phạm tội “Tàng tữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tháng tù; Về vật chứng: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy chất ma túy và 01 vật nhọn bằng kim loại dài 30cm; giao trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen và 01 xe mô tô hiệu Honda biển số 72H1-319.36; Đại diện Công ty Tài chính TNHH HD S và chị Phương A không có ý kiến, yêu cầu gì nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 28-12-2019, tại đường 3/x, thuộc khu vực Phường M1, thành phố V, Nguyễn Quang N bị bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép 1,8271 gam chất ma túy, loại Methamphetamine. N khai mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Quang N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà việc sử dụng ma túy còn làm giảm sức khỏe bản thân người sử dụng; gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên N dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật khác. Bản thân bị cáo có N thân xấu, năm 2010 bị Công an xã L xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng, năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 09 năm tù về tội “Cướp tài sản” chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội, cho thấy bị cáo xem thường pháp luật và lần phạm tội này của bị cáo được xác định là tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do đó, cần phải xử nghiêm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng:

- Chất ma túy thu giữ trong vụ án là chất cấm lưu hành và 01 vật nhọn bằng kim loại dài 30cm không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động màu đen hiệu Oppo và 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda, biển số 72H1-319.xx là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên giao trả cho bị cáo.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Phương A và Đại diện Công ty tài chính TNHH HD S không có ý kiến yêu cầu gì trong vụ án nên không xét đến.

[6] Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo về điều luật áp dụng và mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xét ý kiến luật sư bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ, bị cáo phạm tội do hoàn cảnh khó khăn và bị dụ dỗ dẫn đến phạm tội là không có căn cứ nên không chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Nguyễn Quang N 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 28-12-2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói chất ma túy được niêm phong số 49 ngày 03-01- 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Tịch thu tiêu hủy 01 vật nhọn bằng kim loại dài 30cm.

- Giao trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen và 01 xe mô tô hiệu Honda, biển số 72H1-319.xx.

(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố V đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 77/BB.THA ngày 10-3-2020).

3. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 105/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;