Bản án 105/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 105/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 87/2020/HSST ngày 25 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2020/QĐ-HPT ngày 16 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Q M - sinh năm 1977; nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Số A ngách B đường Láng, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Q H và bà Nguyễn T L; V: Nguyễn L T; Con: có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con bé sinh năm 2020.

Tiền án: - Ngày 20.5.1996, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo Khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 1985;

- Ngày 13.06.2017, Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Nhân thân: - Từ năm 1991 đến năm 2016, có 15 tiền sự về các hành vi Trộm cắp tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Sử dụng trái phép chất ma túy, Bắt đi cơ sở giáo dục, Bắt đi cai nghiện bắt buộc.

- Ngày 17.12.2003, Tòa án nhân dân Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

- Ngày 13.05.2005, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 28 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Điểm c Khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

- Ngày 01.02.2008, Tòa án nhân dân Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xử phạt 28 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điểm đ Khoản 2 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Danh chỉ bản số 849 do Công an Quận Đống Đa lập ngày 17.12.2019; bị cáo bị bắt quả tang ngày 17.12.2019 - Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08h15 phút ngày 17.12.2019, tại khu vực ngách 90/88 Phố Trần Quý Cáp, Phường Văn Chương, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Tổ công tác Công an Phường Văn Chương đã tiến hành kiểm tra đối với Nguyễn Q M. Do M không xuất trình được giấy tờ tùy thân nên cơ quan công an đã yêu cầu M về trụ sở Công an Phường Quốc Tử Giám. Tại cơ quan Công an, M đã tự lấy ở đầu gối chân trái (chân giả của mình) ra giao nộp 01 gói giấy màu trắng kích thước 01x01 cm bên trong có chứa chất bột màu trắng và 01 túi nilon trong suốt kích thước khoảng 03x05cm bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng. Ngoài ra, cơ quan công an còn tạm giữ của M 01 xe mô tô Honda Air Blade BKS: 29C1 – 35512 (số khung:

121491, số máy: 0148130).

Tại Bản kết luận giám định số: 8226 ngày 25.12.2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, kết luận:

- Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,160 gam;

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,170 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Q M đã khai: Khoảng 07h30 phút ngày 17.12.2019, M điều khiển xe mô tô Honda Airblade BKS 29C1-355.12 đến khu vực cổng Trường Tiểu học Văn Chương, Phường Văn Chương, Quận Đống Đa, mua số ma túy trên trị giá 300.000 đồng của một người phụ nữ không quen biết. Sau khi mua được ma túy, M giấu vào chân giả bên trái của mình rồi đi đến ngách 90/88 Trần Quý Cáp thì bị Tổ công tác Công an Phường Văn Chương kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Đi với đối tượng bán ma túy, M khai không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Đi với chiếc xe mô tô Honda Air Blade, BKS: 29C1 – 35512, số khung:

121491, số máy: 0148130, qua điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn L T (Là vợ của M; HKTT: Số A Ngách B đường Láng, Phường Ngã Tư Sở, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội), xét không liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe mô tô trên cho chị T.

Cáo trạng số 87/CT-VKSĐĐ ngày 20.3.2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Đống Đa đã truy tố Nguyễn Q M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Đống Đa vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên, sau khi phân tích đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm o Khoản 2 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Q M mức án từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo, tịch thu tiêu hủy tang vật là ma túy.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Q M đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 08h15 phút ngày 17.12.2019, tại số 23 Phố Quốc Tử Giám, Phường Văn Chương, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Nguyễn Q M đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Heroine khối lượng 0,160 gam; Methamphetamine khối lượng: 0,170 gam), mục đích để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Việc sử dụng ma túy là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm, tiếp tay cho tệ nạn xã hội, do vậy việc đưa bị cáo ra truy tố, xét xử trước pháp luật là cần thiết.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu 02 tiền án chưa được xóa án tích do vậy lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm được coi là tình tiết định khung hình phạt quy định tại Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Với hành vi phạm tội và nhân thân nêu trên của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử có xem xét tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội do vậy có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Do bị cáo nghiện ma túy, không có việc làm ổn định nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý tang vật:

Tang vật của vụ án là lượng 0,160 gam Heroine và 0,170 gam Methamphetamine cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Q M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng: Điểm o Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015.

Xử phạt: Nguyễn Q M 6 (Sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày 17.12.2019.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của giám định viên, chữ ký cán bộ công an phường và đối tượng Nguyễn Q M bên trong phòng bì có chứa 0,160 gam Heroine và 0,170 gam Methamphetamine (đã trích mẫu giám định) Toàn bộ tang vật nêu trên đã lưu kho của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa theo Biên bản giao nhận vật chứng số 163 ngày 19.3.2020.

Án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135 và Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 105/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;