Bản án 105/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 105/2019/HS-ST NGÀY 17/04/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 17 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 81/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Ngọc C, sinh năm 1984 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Xóm 5, thôn P, xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Gia T (đã chết) và bà Trần Thị C, sinh năm 1948; vợ: Trần Thị T, sinh năm 1984 (đã ly hôn); có 02 con, sinh năm 2007 và 2009; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22-5-2009, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”; tạm giữ từ ngày 29-11-2018, sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Nam Định; có mặt.

2. Hoàng C V, sinh năm 1988 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Xóm 5, thôn L, xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng C H, sinh năm 1954 và bà Đặng Thị Y, sinh năm 1957; vợ: Hoàng Thị Thu H, sinh năm 1991; có 01 con sinh ngày 16-02-2019; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 29-11-2018 sau đó chuyển tạm giam đến ngày 14-12-2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

3. Trần Quang V, sinh năm 1987 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Thôn L, xã Mỹ Phúc, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Quang V, sinh năm 1958 và bà Trần Thị V, sinh năm 1961; vợ: Hoàng Thị Hoa L, sinh năm 1993; có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 29-11-2018 sau đó chuyển tạm giam đến ngày 17-01-2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

4. Trịnh Đức T, sinh năm 1992 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Xóm N, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Đức T , sinh năm 1960 và bà Phạm Thị M , sinh năm 1965; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 29-11-2018 đến ngày 02-12-2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

5. Hoàng Trung D , sinh năm 1993 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Xóm 5, thôn L, xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Trung L, sinh năm 1968 và bà Đặng Thị H, sinh năm 1971; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 14-3-2012, Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm phạt 14 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và “Cố ý làm hư hỏng T sản” (Cơ quan thi hành án dân sự không có hồ sơ thi hành án), Ngày 06-5-2013, C an huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; tạm giữ từ ngày 29-11- 2018, sau đó chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - C an thành phố Nam Định; có mặt.

6. Hoàng Trung C, sinh năm 1991 tại tỉnh Nam Định. Nơi cư trú: Xóm 5, thôn L, xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Trung P, sinh năm 1946 và bà Phùng Thị K, sinh năm 1948; vợ: Lê Thị Thu H, sinh năm 1992; có 01 con sinh ngày 07-02-2019; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 29-11-2018 sau đó chuyển tạm giam đến ngày 14-12-2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29-11-2018, Phạm Ngọc C nảy sinh ý định rủ một số người bạn đến nhà C tại xóm 5, thôn L, xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định để đánh bạc. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, C sử dụng điện thoại của mình gọi cho Hoàng Trung C, Hoàng C, V, Trần Quang X đến nhà mình đánh bạc; C, V, X đồng ý. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, C và V đến nhà C trước, còn X một mình đến sau. Vì còn thiếu người đánh bạc nên C mời cả ba ở lại ăn cơm để chờ rủ thêm người; V từ chối ăn cơm và nói khi nào có đủ người chơi sẽ quay lại, còn C và X ở lại ăn cơm với C. Sau đó, C gọi điện thoại cho Trịnh Đức T và rủ T đến nhà C đánh bạc. Lúc này, T đang đi cùng với Hoàng Trung D nên C bảo T rủ D cùng đến nhà C đánh bạc. T đồng ý và rủ D cùng đến nhà C đánh bạc, D nhất trí. Khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, V một mình quay lại nhà C; một lúc sau, T và D đến nhà C. Tại đây, một lần nữa C rủ C, X, V, T và D đánh bạc, cả bọn đồng ý. C lấy chiếu trải ra phòng khách và lấy ra 02 bộ bài tú lơ khơ 52 quân do C chuẩn bị sẵn từ trước. C nói với mỗi người chơi đưa cho C 100.000 đồng là tiền hồ, do C cho mượn nhà C làm địa điểm đánh bạc. Cả bọn đồng ý. C, X, T, D mỗi người đưa cho C 100.000 đồng, tổng cộng là 400.000 đồng. Riêng V chưa đưa tiền mà mượn lại C 400.000 đồng trên sử dụng để đánh bạc, sau đó C ngồi xem mọi người đánh bạc. C, X, T, D và V cùng thống nhất đánh bạc bằng hình thức đánh bài ba cây tính điểm ăn tiền. T lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài, bỏi 16 quân bài 10, J, Q, K ra ngoài, còn lại lấy 36 quân bài từ A, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 để đánh ba cây tính điểm. Thứ tự các chất quân bài từ cao đến thấp là: Cơ, rô, tép, bích, trống cửa đặt cược là 100.000 đồng. T là người cầm chương đầu tiên. Cách thức chơi là người cầm chương chia bài cho những người chơi còn lại, mỗi người ba quân bài, người chơi đặt cược tiền và đọ điểm với người cầm chương. Nếu cao điểm hơn người cầm chương thì người cầm chương phải trả bằng số tiền đặt cược, còn nếu thấp điểm hơn thì người cầm chương thắng và được số tiền người chơi đặt cược. Trường hợp người chơi được 10 điểm thì người thua phải trả gấp đôi số tiền đặt cược. Nếu có 02 người chơi trở lên được 10 điểm thì người thua phải trả gấp đôi số tiền đặt cược. Nếu có 02 người chơi trở lên được 10 điểm thì sẽ đọ chất bài cao nhất. Nếu người chơi có 03 quân bài giống nhau (gọi là sáp) thì được gấp 03 lần số tiền đặt cược. Các đối tượng đánh bạc từ khoảng 13 giờ đến 15 giờ 15 phút cùng ngày thì bị Tổ Công tác đội Cảnh sát hình sự - Công an thành phố Nam Định bắt quả tang, thu giữ và niêm phong toàn bộ số tiền trên chiếu bạc là tiền mà các đối tượng đang dùng để đánhbạc, 02 bộ bài tú lơ khơ (mỗi bộ có 52 quân bài); 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng của C, 01 điện thoại Iphone màu đen của C, 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng của X, 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng của V, 01 chiếc điện thoại Iphone màu xám của T, 01 chiếc điện thoại Iphone màu hồng của D. Do các đối tượng đã làm đảo lộn số tiền đang đánh bạc ở trên chiếu nên không thể xác định được cụ thể số tiền đánh bạc của từng người tại thời điểm bắt quả tang.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Ngọc C, Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D đã khai nhận toàn bộ nội dung hành vi nêu trên và C nhận toàn bộ số tiền bị thu giữ sau khi mở niêm phong là 23.290.000 đồng là tiền mà các đối tượng đang sử dụng để đánh bạc (trong đó có 400.000 đồng V mượn tiền hồ của C để đánh bạc). Các đối tượng khai cụ thể hành vi phạm tội như sau:

- Phạm Ngọc C khai nhận: C là người đã rủ C, X, V, T, D đến nhà mình đánh bạc và thu tiền hồ của mỗi người 100.000 đồng. C, X, T, D đã đưa tiền cho C, tổng cộng là 400.000 đồng. Còn V chưa đưa tiền hồ, mà mượn lại của C số tiền 400.000 đồng nêu trên để đánh bạc. V hứa sẽ trả tiền hồ cho C sau khi chơi bạc xong. Lúc bị bắt quả tang, C đang ngồi trên ghế để xem mọi người đánh bạc. Chiếc điện thoại Iphone màu vàng mà cơ quan C an thu giữ của C là C cụ mà C đã sử dụng để liên lạc, gọi rủ các đối tượng đến nhà mình đánh bạc.

- Hoàng Trung D khai nhận: Khi đánh bạc, D có khoảng 2.500.000 đồng và đã trả cho C 100.000 đồng tiền hồ. Lúc bị bắt quả tang, D đang thắng khoảng 1.000.000 đồng. Chiếc điện thoại Iphone màu hồng mà cơ quan công an thu giữ của D là tài sản cá nhân của D dùng để liên lạc hàng ngày, không sử dụng vào mục đích đánh bạc.

- Trần Quang X khai nhận: Khi tham gia đánh bạc, X có khoảng 6.000.000 đồng để sử dụng đánh bạc. X đã trả cho C 100.000 đồng tiền hồ. Lúc bị bắt quả tang, X đang thắng khoảng 2.000.000 đồng. Chiếc điện thoại Iphone màu vàng mà cơ quan Công an thu giữ của X là tài sản cá nhân của X dùng liên lạc với C để đến nhà C đánh bạc, không sử dụng vào mục đích đánh bạc.

- Hoàng Trung C khai nhận: Khi đánh bạc, C có 200.000 đồng và đã trả cho C 100.000 đồng tiền hồ. Sau đó, C đã mượn của V 1.000.000 đồng để đánh bạc. Lúc bị bắt quả tang, C thua hết tiền. Chiếc điện thoại Iphone màu đen mà cơ quan Công an thu giữ của C là tài sản cá nhân của C dùng liên lạc với C để đến nhà C đánh bạc, không sử dụng vào mục đích đánh bạc.

- Hoàng C V khai nhận: Khi đánh bạc, V có khoảng 9.000.000 đồng và đã mượn của C 400.000 đồng (là tiền mà C, X, T, D trả tiền hồ cho C). Lúc bị bắt quả tang, V đang thua khoảng 1.000.000 đồng. Chiếc điện thoại Iphone màu vàng mà cơ quan Công an thu giữ của V là tài sản cá nhân của V dùng liên lạc với C để đến nhà C đánh bạc, không sử dụng vào mục đích đánh bạc.

- Trịnh Đức T khai nhận: Khi đánh bạc, T có khoảng 3.500.000 đồng và đã trả cho C 100.000 đồng tiền hồ. Lúc bị bắt quả tang, T đang thua khoảng 2.000.000 đồng. Chiếc điện thoại Iphone màu xám mà cơ quan C an thu giữ của T là tài sản cá nhân của T dùng liên lạc với C để đến nhà C đánh bạc, không sử dụng vào mục đích đánh bạc.

Bản cáo trạng số 84/CT-VKS ngày 04-3-2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố bị cáo Phạm Ngọc C tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử các bị cáo mức án thấp nhất tạo điều kiện cho các bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm trở thành C dân có ích cho gia đình và xã hội.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền C tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Phạm Ngọc C, Trần Quang X,

Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D về tội danh, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc C từ 24 tháng tù đến 27 tháng tù.

- Áp dụng điểm khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Trung D từ 07 tháng tù đến 08 tháng tù.

- Áp dụng điểm khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Đức T từ 06 tháng tù đến 07 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng C V từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Xử phạt bị cáo Trần Quang X từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

Xử phạt bị cáo Hoàng Trung C từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với tất cả các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 23.290.000 đồng (hai mươi ba triệu hai trăm chín mươi ngàn đồng); 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo C, 01 điện thoại Iphone màu đen thu giữ của bị cáo C, 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo X, 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo V, 01 chiếc điện thoại Iphone thu giữ của bị cáo T; tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tú lơ khơ; trả lại bị cáo D 01 chiếc điện thoại Iphone màu hồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử các bị cáo mức án thấp nhất để các bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra C an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[2] Trong khoảng thời gian từ 09 giờ 30 phút đến 15 giờ 15 phút ngày 29-11-2018, Phạm Ngọc C đã có hành vi rủ rê, tập hợp, sắp xếp, chuẩn bị các C cụ, phương tiện và sử dụng nhà mình tại địa chỉ: Xóm 5, thôn P, xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định làm địa điểm để Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh bài ba cây với tổng số tiền là 23.290.000 đồng (hai mươi ba triệu hai trăm chín mươi ngàn đồng) và C đã thu tiền hồ của D, X, T, C mỗi người 100.000 đồng (một trăm ngàn đồng). Trong khi việc đánh bạc đang diễn ra thì bị lực lượng Tổ Công tác Đội Cảnh sát hình sự - Công an thành phố Nam Định bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng, tang vật.

Hành vi của các bị cáo còn được chứng minh bằng lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, thấy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Ngọc C phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; hành vi của các bị cáo Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của tất cả các bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo:

4.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tất cả các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

4.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, tất cả các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình vì vậy tất cả các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bố bị cáo Hoàng C V được tặng thưởng nhiều huân chương kháng chiến; bố bị cáo Trần Quang X được tặng thưởng huy chương chiến sỹ vẻ vang; bố bị cáo Hoàng Trung C được tặng thưởng huân chương kháng chiến; bị cáo Hoàng C V, Hoàng Trung C, Trần Quang X có đơn đề nghị trình bày có hoàn cảnh khó khăn xin được cải tạo tại địa phương được chính quyền địa phương xác nhận hợp lệ nên bị cáo Hoàng C V, Hoàng Trung C, Trần Quang X được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

4.3. Về hình phạt:

Trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đối chiếu với các quy định của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm trật tự xã hội, gây mất trật tự trên địa bàn thành phố. Đánh bạc là tệ nạn xã hội, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Bản thân các bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được hành vi của mình là phạm tội nhưng do các bị cáo không làm chủ được bản thân nên các bị cáo đã phạm tội. Việc đưa các bị cáo ra xét xử nhằm đấu tranh ngăn chặn tệ nạn cờ bạc trong xã hội, giữ gìn trật tự C cộng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân.

Bị cáo Phạm Ngọc C bị truy tố về tội độc lập với các bị cáo khác trong vụ án. Xét bị cáo phạm loại tội phạm nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân xấu nên áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần phòng ngừa tội phạm trên địa bàn thành phố.

Trong vụ án này, các bị cáo Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D cùng thống nhất thực hiện một tội phạm nên là đồng phạm. Xét số tiền các bị cáo bỏ ra để đánh bạc các bị cáo khai không phù hợp với vật chứng đã thu giữ nên lời khai của bị cáo về số tiền mỗi bị cáo bỏ ra để đánh bạc không được coi là căn cứ để đánh giá vai trò của các bị cáo. Vì vậy đánh giá các bị cáo có vai trò như nhau trong vụ án đánh bạc. Các bị cáo phải chịu trách nhiệm về tổng số tiền thu giữ. Bị cáo Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T có nhân thân tốt vì vậy ấn định cho các bị cáo mức án ngang nhau. Bị cáo Hoàng Trung D có nhân thân xấu vì vậy ấn định mức hình phạt của bị cáo cao hơn so với các bị cáo bị truy tố về tội đánh bạc.

Xét bị cáo Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có đơn đề nghị trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, xin được cải tạo tại địa phương, bố các bị cáo là người có công với cách mạng. Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội nên cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương và ấn định thời gian thử thách đối với các bị cáo cũng đủ để răn đe, giáo dục các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Bị cáo Trịnh Đức T có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tuy nhiên không có căn cứ chứng minh bị cáo có khả năng tự cải tạo, vì vậy cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn và ấn định mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

- Về hình phạt bổ sung: Xét tất cả các bị cáo trong vụ án đều không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với tất cả các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền 23.290.000 đồng (hai mươi ba triệu hai trăm chín mươi ngàn đồng) thu giữ của các bị cáo là tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc; 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo C, 01 điện thoại Iphone màu đen thu giữ của bị cáo C, 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo X, 01 chiếc điện thoại Iphone màu vàng thu giữ của bị cáo V, 01 chiếc điện thoại Iphone thu giữ của bị cáo T, xét đó là phương tiện các bị cáo sử dụng liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội nên tất cả tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.

- 02 bộ bài tú lơ khơ đã cũ là công cụ các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

- 01 chiếc điện thoại Iphone màu hồng đã thu giữ của bị cáo D là T sản riêng của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Án phí Hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc C phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Tuyên bố các bị cáo Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D phạm tội “Đánh bạc”.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc C 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29-11-2018.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Trung D 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29-11-2018.

4. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trịnh Đức T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án (thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29-11-2018 đến ngày 02-12- 2018 được trừ vào thời gian bị cáo chấp hành án).

5. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Hoàng C V 06 (sáu) tháng tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo (bị cáo đã bị giam giữ từ ngày 29-11-2018 đến ngày 14-12-2018), thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hoàng C V cho Ủy ban nhân dân xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

- Xử phạt bị cáo Trần Quang X 06 (sáu) tháng tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo (bị cáo đã bị giam giữ từ ngày 29-11-2018 đến ngày 17-01-2019), thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Quang X cho Ủy ban nhân dân xã M, huyện M, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Trung C 06 (sáu) tháng tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo (bị cáo đã bị giam giữ từ ngày 29-11-2018 đến ngày 14-12-2018), thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hoàng Trung C cho Ủy ban nhân dân xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

6. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

7. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tú lơ khơ đã cũ;

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 23.290.000 đồng (hai mươi ba triệu hai trăm chín mươi ngàn đồng) và 01 chiếc điện thoại Iphone đã cũ còn nguyên vẹn niêm phong có chữ ký của Phạm Ngọc C, 01 điện thoại Iphone đã cũ còn nguyên vẹn niêm phong có chữ ký của Trịnh Đức T, 01 chiếc điện thoại Iphone đã cũ còn nguyên vẹn niêm phong có chữ ký của Trần Quang X, 01 chiếc điện thoại Iphone đã cũ còn nguyên vẹn niêm phong có chữ ký của Hoàng C V, 01 chiếc điện thoại Iphone đã cũ còn nguyên vẹn niêm phong có chữ ký của Hoàng Trung C.

- Trả lại bị cáo Hoàng Trung D 01 chiếc điện thoại Iphone đã cũ còn nguyên vẹn niêm phong có chữ ký của Hoàng Trung D nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phần án phí hình sự sơ thẩm.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng).

8. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:  Các bị cáo Phạm Ngọc C, Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

9. Về quyền kháng cáo bản án: Các bị cáo Phạm Ngọc C, Trần Quang X, Hoàng Trung C, Hoàng C V, Trịnh Đức T, Hoàng Trung D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

10. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự: Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

463
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 105/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

Số hiệu:105/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;