Bản án 105/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 105 /2017/HSST NGÀY 28/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân phường N, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Tòa án nhân dân Quận Lê Chân- Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 83/2017/HSST ngày 04/7/2017 đối với bị cáo:

Phạm Văn T ( tên gọi khác là: Tuấn), sinh năm: 1958; đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số 170 C, Quận N, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Khu L, chợ Đ, Quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ học vấn: lớp 7/10; con ông: Phạm Văn L và bà Tạ Thị B (đều đã chết); có vợ là Lê Thị T, sinh năm 1958( đã ly thân) và ba con: con lớn sinh năm 1980( đã chết), con nhỏ sinh năm 1986; tiền án, tiền sự: 01 tiền án, 01 tiền sự đã được xóa; tạm giữ ngày 24/3/2017; tạm giam ngày 26/3/2017, có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Phạm Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Phạm Văn T nghiện ma túy từ năm 2013 đến nay vẫn chưa từ bỏ được nên khoảng 11 giờ ngày 23/3/2017, T đi xe đạp một mình đến khu vực chắn tàu C, Quận L, Hải Phòng để mua Heroine về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua của một nữ giới khoảng 30 tuổi đang ngồi giữa đường ray tàu hỏa mua 150.000đồng được 01 gói Heroine. T để gói Heroine vào giỏ xe đạp và đi về đến khu vực trước cửa nhà số 4/37/346 T, thì dừng xe, dùng tay Phải lấy gói Heroine ra định sử dụng thì bị Tổ công tác thuộc công an phường H phát hiện bắt giữ, ngoài ra còn thu giữ của T 01 xe đạp màu nhũ đã cũ. Sau đó, Tổ công tác đã đưa T cùng tang vật về trụ sở đế lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 545/PC54(MT) ngày 27/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 01 gói giấy thu của Phạm Văn T có Heroine. Trọng lượng Heroine có trong 0,2768gam chất bột là 0,1176gam.

Tại Cáo trạng số 108/CT-VKS, ngày 03/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, Hải Phòng thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và đưa ra quan điểm: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự như cáo trạng đã nêu. 

- Về hình phạt: Áp dụng Khoản 1 Điều 194 BLHS 1999; điểm p Khoản 1 Điều 46 BLHS 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017; Khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 đối chiếu với Khoản 1 Điều 249 BLHS 2015; xử phạt bị cáo Phạm Văn T mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự 1999; Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định còn lại đã được niêm phong trong 01 phong bì; trả lại cho bị cáo 01 xe đạp mini màu nhũ đã qua sử dụng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

Đối với đối tượng nữ giới là người bán ma túy cho T ngày 23/3/2017, T không xác định được tên tuổi, địa chỉ của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân không có cơ sở điều tra, làm rõ nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang được lập vào hồi 11h10' ngày 23/3/2017 tại trụ sở Công an phường H, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; phù hợp với Bản kết luận giám định số 545/PC54(MT) ngày 27/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, tang vật của vụ án đã thu giữ; thể hiện Hồi 11 giờ ngày 23/3/2017 Phạm Văn T có hành vi cất giữ trái phép 0,1176gam Heroin với mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Phạm Văn T phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma tuý" vi phạm khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý chất gây nghiện và là nguyên nhân gây lên các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án nên phải xử lý nghiêm để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về nhân thân, bị cáo có 01 tiền án (đã xóa): Án số 77/2011/HSST ngày 22/11/2011, Tòa án nhân dân quận H xử phạt 15 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ 06/8/2011, đã nộp xong án phí Hình sự sơ thẩm. Ngày 28/12/2015 Phạm Văn T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị công an phường L, Quận N xử phạt hành chính. Mặc dù tiền án, tiền sự của bị cáo đã được xóa nhưng cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên xét cho bị cáo Phạm Văn T được giảm hình phạt bởi lẽ theo quy định tại Khoản 3 Điều 7; Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn quy định tại Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 và xét tính có lợi cho người phạm tội theo quy định tại Khoản 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017.

Mặt khác tại giai đoạn điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo nên cần áp dụng điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

Do bị cáo không có nhà ở và không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, theo quy định tại Khoản 5 Điều 194 luật Hình sự đối với bị cáo.

Đối với đối tượng nữ giới bán ma túy cho T ngày 23/3/2017, T không xác định được tên tuổi, địa chỉ của đối tượng nên Cơ quan CSĐT Công an Quận Lê Chân không có cơ sở điều tra, làm rõ nên Hội đồng xét xử không xét

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định, xét đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Hình sự 1999 và Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 01 xe đạp mini màu nhũ đã qua sử dụng xét là vật bị cáo sử dụng hàng ngày trong cuộc sống nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành khoản tiền án phí.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Về hình phạt: Áp dụng Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999; Khoản 3 Điều 7; Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015; điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017; Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 18 ( Mười tám) tháng tù .Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 24/3/2017.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điểm a, c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự 1999; Điểm a Khoản 2, Khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định.

Tiếp tục tạm giữ 01 xe đạp mini màu Nhũ đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo để đảm bảo việc thi hành khoản tiền án phí.

Theo đúng biên bản giao, nhận tài sản vật chứng ngày 03/7/2017 giữa Công an Quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016:

Bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm 

- Về quyền kháng cáo bản án : Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 105/2017/HSST ngày 28/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;