TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 105/2017/DS-PT NGÀY 11/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 112/2017/TLPT-DS ngày 15/8/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 12/2017/DS-ST ngày 15/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 129/2017/QĐ-PT ngày 21 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
- Bà Võ Thị Th, trú tại: Thôn X, xã EK, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
- Ông Nguyễn Thanh B; trú tại: Thôn X, xã EK, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Bị đơn: Ông Huỳnh Minh T; trú tại: Thôn Y, xã EK, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị N; trú tại: Thôn Y, xã EK, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị S (Nguyễn Thị H); trú tại: Thôn X, xã EK, huyện CM, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Huỳnh Minh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 04/01/2017, đơn thay đổi nội dung khởi kiện ngày03/3/2017 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Võ Thị Th, ông NguyễnThanh B trình bày:
Ngày 27/8/2016, vợ chồng ông Huỳnh Minh T, bà Nguyễn Thị N có mượn của ông B và bà Th số tiền 100.000.000 đồng, ngày 21/9/2016 ông T và bà N vay của ông B và bà Th 260.000.000 đồng, thỏa thuận trong vài ngày sẽ trả nhưng ông T và bà N không trả, nên ông B và bà Th yêu cầu ông T và bà N trả nợ. Ngày27/10/2016, ông T và bà N viết giấy cam kết hẹn đến ngày 12/11/2016 sẽ trả nợ cho ông B và bà Th. Ông B và bà Th không biết chữ ký trong giấy cam kết này có phải của bà N hay không. Đến ngày 19/11/2016, ông T viết giấy vay tiền đối với số tiền gốc 360.000.000 đồng và hẹn đến ngày 20/12/2016 sẽ trả cho ông B và bà Th. Đến nay ông T, bà N vẫn chưa trả nợ cho ông B và bà Th, nên ông B và bà Th khởi kiện yêu cầu ông T, bà N trả cho ông ông B và bà Th số nợ 360.000.000 đồng. Ngày 03/3/2017, ông B và bà Th làm đơn thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện: Ông B và bà Th chỉ yêu cầu ông Huỳnh Minh T phải trả số nợ gốc 360.000.000 đồng cho ông bà, đồng thời xác định bà N là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Huỳnh Minh T trình bày: Ông Tthừa nhận trong khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2016, ông T có vay tiền của vợ chồng ông Nguyễn Thanh B và bà Võ Thị Th nhiều lần, ông T đã trả nợ nhiều lần cho ông B và bà Th. Ngày 19/11/2016 ông T có viết và ký giấy vay tiền, chốt lại ông T còn nợ vợ chồng ông B và bà Th số nợ gốc là 360.000.000 đồng. Đây là khoản tiền ông T cho người khác mượn lại, hoàn cảnh gia đình ông T hiện nay rất khó khăn, nên ông T chưa có tiền để trả cho ông B, bà Th, khi nào có tiền ông T sẽ trả cho ông B và bà Th. Việc vay mượn này không liên quan đến vợ ông T là bà Nguyễn Thị N, nên chỉ một mình ông T có trách nhiệm trả nợ cho ông B và bà Th.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N trình bày: Chồng bà N là ông T có quan hệ quen biết làm ăn với ông B và bà Th nên bà N có biết họ. Tuy nhiên, việc ông B và bà Th cho ông T vay 360.000.000 đồng thì bà N không biết. Ông T không bàn bạc gì với bà N, không mang số tiền này về chi tiêu sinh hoạt trong gia đình, bà N cũng không ký vào giấy vay ông B và bà Th số tiền nói trên. Chữ ký trong giấy cam kết ngày 27/10/2016 không phải chữ ký của bà N. Ông T không nói gì với bà N về lãi suất hay thời hạn trả nợ. Vì vậy, bà N không vay tiền của ông B và bà Th, nên bà không có trách nhiệm cùng ông T trả nợ cho ông B và bà Th đối với số nợ trên.
Tại bản án số 12/2017/DS-ST ngày 15/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Áp dụng các Điều 143, Điều 144, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; các Điều 463, 465 và Điều 466 của Bộ luật dân sự 2015; điểm b khoản 1 Điều 24 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụQuốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Th, ông NguyễnThanh B.
Buộc ông Huỳnh Minh T trả lại số tiền 373.524.000 đồng (Trong đó gồm360.000.000đ tiền gốc và 13.524.000đ tiền lãi).
Ông Huỳnh Minh T phải tiếp tục chịu lãi từ ngày 16/6/2017 đến khi trả xong nợ gốc với mức lãi suất 0,7%/tháng (8,5%/năm).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 27/6/2017, bị đơn ông Huỳnh Minh T kháng cáo bản án sơ thẩm số12/2017/DS-ST ngày 15/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk về phần lãi suất. Ông cho rằng khi vay ông và ông B, bà Th không thỏa thuận lãi suất, tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm nguyên đơn không yêu cầu tính lãi, đến phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn mới yêu cầu tính lãi, nhưng ông không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm, nên ông không được biết hay có ý kiến về phần tiền lãi; mức lãi suất 8,5%/năm (0,7%/tháng) là chưa hợp lý, ông T xin được giảm mức lãi suất xuống còn 0,5%/tháng/nợ tính từ ngày khởi kiện đến ngày xét xử sơ thẩm. Về việc thanh toán số tiền 360.000.000 đồng ông xin được trả thành nhiều lần. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Huỳnh Minh T giữ nguyên nội dung đơnkháng cáo, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh B bà Võ Thị Th giữ nguyên đơn khởi kiện.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Ông T thừa nhận ông còn nợ của ông B và bà Th số tiền 360.000.000 đồng. Cấp sơ thẩm áp dụng các Điều 466; 468 BLDS buộc ông T thanh toán cho ông B và bà Th số tiền 373.524.000 đồng, trong đó có 13.524.000 đồng nợ lãi, mức lãi suất 8,5%/năm là đúng quy định. Ông T kháng cáo xin trả nợ làm nhiều lần, kháng cáo về mức lãi suất nhưng nguyên đơn không đồng ý, nên kháng cáo của ông Huỳnh Minh T là không có căn cứ để chấp nhận, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Huỳnh Minh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 12/2017/DS-ST ngày 15/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện CưMgar, tỉnh Đăk Lăk.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét nội dung kháng cáo của ông Huỳnh Minh T đề nghị Hội đồng xét xửphúc thẩm tuyên trả số tiền 360.000.000 đồng thành nhiều lần.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, tại biên bản làm việc ngày 18/8/2017 của cấp phúc thẩm (BL 95) và tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn ông Huỳnh Minh T thừa nhận ông có nợ vợ chồng bà Võ Thị Th và ông Nguyễn Thanh B 360.000.000 đồng tiền gốc. Ông chấp nhận trả cho ông B và bà Th toàn bộ số nợ trên, do các bên không thỏa thuận được với nhau về phương thức thanh toán nợ, nên Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Do không có khả năng thanh toán nợ một lần đối với số nợ trên, nên ông T xin được trả nợ làm nhiều lần, mỗi năm ông sẽ trả ông B và bà Th 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm, ông B và bà Th không đồng ý cho ông T trả nợ nhiều lần, mà yêu cầu ông T phải thanh toán nợ cho ông bà một lần đối với toàn bộ số tiền hiện nay ông T nợ ông B và bà Th. Vì vậy cấp phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T xin trả số nợ 360.000.000 đồng, cho ông B và bà Th làm nhiều lần. Việc ông T thanh toán nợ cho ông B và bà Th sẽ được giải quyết theo trình tự thi hành án.
[2] Đối với kháng cáo của ông T về phần lãi suất: Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Tại đơn khởi kiện (BL 03), đơn thay đổi nội dung khởi kiện (BL 22) và quá trình giải quyết vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm, nguyên đơn ông B và bà Th không yêu cầu Tòa án giải quyết về lãi suất, không có đơn bổ sung nội dung yêu cầu khởi kiện về yêu cầu tính lãi suất, không có biên lai nộp tiền tạm ứng án phí về yêu cầu này. Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm không thụ lý yêu cầu tính lãi suất đối với số nợ ông B và bà Th yêu cầu ông T phải thanh toán cho ông bà. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm (BL 80 -82) ông B, bà Th lại yêu cầu tính lãi suất đối với số nợ ông T nợ ông bà. Cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu tính lãi suất đối với số nợ ông T nợ ông B, bà Th và buộc ông T trả cho ông B và bà Th số tiền 373.524.000 đồng trong đó nợ gốc là 360.000.000 đồng, nợ lãi là 13.524.000 đồng, là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện. Theo quy định của pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm không được xem xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn, mà giải thích và hướng dẫn cho nguyên đơn có quyền khởi kiện đối với yêu cầu tính lãi trong một vụ án khác. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại chấp nhận yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn và buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số nợ lãi nói trên là vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, vi phạm trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Tại phiên tòa phúc thẩm ông T xin được giảm mức lãi suất xuốngcòn 0,5%/tháng/nợ, tính từ ngày khởi kiện đến ngày xét xử sơ thẩm, nhưng ông B và bà Th không đồng ý nên không có cơ sở xem xét. Vì vậy, kháng cáo của ông T về phần lãi suất là có căn cứ cần chấp nhận, cần sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số12/2017/DS-ST ngày 15/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk về phần lãi suất. Ông B, bà Th có quyền khởi kiện đối với yêu cầu tính lãi đối với số nợ gốc nói trên trong một vụ án khác.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên ông T phải tiếp tục chịu lãi từ ngày 16/6/2017 đến khi trả xong nợ gốc mức 0,7%/tháng (8,5%/năm) , là không phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự. Cần sửa lại theo hướng áp dụng Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự, để tính lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án, khi có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án.
[3] Xét quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của ông Huỳnh Minh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện CưMgar, tỉnh Đăk Lăk .
Xét thấy, theo quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, thì Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi khởi kiện, yêu cầu phản tố, hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Tuy nhiên cấp sơ thẩm vẫn giải quyết yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn là vượt quá phạm vi khởi kiện. Vì vậy, chấp nhận một phần quan điểm của đại diện viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo yêu cầu được trả nợ gốc làm nhiều lần của ông T. Không chấp nhận quan điểm của đại diện viện kiểm sát về đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm với nội dung kháng cáo phần lãi suất của ông T.
[4] Do yêu cầu kháng cáo của ông T được chấp nhận một phần, nên số tiền ông T phải thanh toán cho ông B và bà Th có sự thay đổi. Vì vậy, cần sửa án phí dân sự sơ thẩm cho phù hợp với quy định của pháp luật. Cụ thể theo quy định tại khoản 2 Điều26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụQuốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, bị đơn ông T phải chịu án phí DSST là:360.000.000 đồng x 5% = 18.000.000 đồng.
Về việc áp dụng pháp luật: Tại bản án dân sự sơ thẩm số 12/2017/DS-ST, ngày 15/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, không áp dụng các quy định về thẩm quyền giải quyết vụ án tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS là thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.
Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của ông T được chấp nhận một phần, nên ông T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự.
Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của ông Huỳnh Minh T, sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 12/2017/DS-ST ngày 15/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện CưMgar, tỉnh Đăk Lăk, về phần lãi suất và án phí.
[2] Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 463, Điều 465 và Điều 466 của Bộ luật dân sự; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thanh B và bà Võ Thị Th. Buộc ông Huỳnh Minh T phải trả cho ông Nguyễn Thanh B và bà Võ Thị Th số nợ 360.000.000 (ba trăm sáu mươi triệu) đồng.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Huỳnh Minh T phải chịu 18.000.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho ông B và bà Th 9.000.000 đồng, tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0042458 ngày 04/01/2017, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Trả lại cho ông Huỳnh Minh T 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí DSPT đã nộp theo biên lai thu số 0042340 ngày 30/6/2017, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
[5] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Áp dụng Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự, để tính lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án, khi có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 105/2017/DS-PT ngày 11/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 105/2017/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về