Bản án 104/2022/HS-ST ngày 12/12/2022 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 104/2022/HS-ST NGÀY 12/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 103/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyn Văn D, sinh năm 1974; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện tại: Thôn V, xã S, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết); Con bà Cấn Thị Đ, sinh năm 1940; Vợ: Vũ Thị H, sinh năm 1974; Con có 02 con, con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 1999. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2009 bị Chủ tịch UBND thị xã Sơn Tây áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Năm 2011 chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính trở về địa pH.

1 Bị can bị tạm giữ từ ngày 20/9/2022, chuyển tạm giam từ ngày 29/9/2022, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam số I- Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 20/9/2022, Nguyễn Văn D điều khiển xe máy đi từ nhà đến khu vực gần Công ty Bảo Long thuộc thôn Đoàn Kết, xã Cổ Đông, thị xã Sơn Tây tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, D gặp và mua của một người phụ nữ tên là T khoảng 35 tuổi một gói ma túy Heroine với giá 200,000₫ rồi điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi D đi trên Quốc lộ 21A đến trước cửa nhà số 747A, thôn Tân Phúc, xã Sơn Đông, thị xã Sơn Tây thì bị lực lượng Công an xã Sơn Đông đang làm nhiệm vụ đảm bảo trật tự giao thông thấy có biểu hiện nghi vấn, kiểm tra hành chính và phát hiện D đang cầm một gói mà túy trong tay phải nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chúng gồm: (BL: 24-35: 64-77: 79-95).

- 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng thu giữ trên tay phải của D. (D khai là gói ma túy heroin vừa mua để sử dụng).

- 01 điện thoại MASSTEL vỏ màu xanh đen, IMEIL 1: 359366096178134.

IMEIL 2 : 359366096178142. Điện thoại đã qua sử dụng.

- 01 xe máy hiệu Honda Wave, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 88C1 – xxxxx Qua xét nghiệm xác định Nguyễn Văn D D tính với ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số: 6699/KLGĐ-PC09 ngày 29/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bọc màu vàng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,283 gam (BL:43).

Đối với nguồn phụ nữ tên T đã bán ma túy cho Nguyễn Văn D, do không biết rõ tên thật và địa chỉ cụ thể của T ở đâu nên không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý được.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ đen, Biển kiểm soát:

88C1-xxxxx, quá trình điều tra đã xác định là xe của chị Vũ Thị H (sinh năm 1974, địa chỉ: Thôn V, xã C, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội) là vợ của D. Khi D lấy xe đi mua ma túy thì chị H không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho chị H. Chị H nhận tại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

Về vật chứng gồm có:

- 01(một) phong bì niêm phong dán kín của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Văn D và cán bộ Công an xã Sơn Đông là Trương Quốc Phú cùng giám định viên Nguyễn Hoàng H.

- 01(một) điện thoại MASSTEL, màu xanh đen, IMEIL 1: 359366096178134. IMEIL 2: 359366096178142. Điện thoại đã qua sử dụng.

Đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan CSĐT- CATX Sơn Tây, Nguyễn Văn D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số: 107/CT-VKS ngày 18/11/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây truy tố bị cáo Nguyễn Văn D ra trước Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên. Bị cáo ăn năn về hành vi phạm tội của mình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về hoàn cảnh bị cáo là lao động chính trong gia đình giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về hòa nhập xã hội, lao động giúp đỡ gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, khoản s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS 2015 xử phạt Nguyễn Văn D từ .... tháng đến .... tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01(một) phong bì niêm phong dán kín của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Văn D và cán bộ Công an xã Sơn Đông là Trương Quốc Phú cùng giám định viên Nguyễn Hoàng H;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D: 01(một) điện thoại MASSTEL, màu xanh đen, IMEIL 1: 359366096178134. IMEIL 2: 359366096178142. Điện thoại đã qua sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Sơn Tây, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn D nhận thấy:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 20/9/2022, Nguyễn Văn D điều khiển xe máy đi từ nhà đến khu vực gần Công ty Bảo Long thuộc thôn Đoàn Kết, xã Cổ Đông, thị xã Sơn Tây để mua của một người phụ nữ tên là T khoảng 35 tuổi một gói ma túy Heroine với giá 200,000 đồng rồi điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi D đi trên Quốc lộ 21A đến trước cửa nhà số 747A, thôn Tân Phúc, xã Sơn Đông, thị xã Sơn Tây thì bị lực lượng Công an bắt quả tang .

Tại Bản kết luận giám định số: 6699/KLGĐ-PC09 ngày 29/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận loại ma túy Nguyễn Vưn D tàng trữ là Heroine, khối lượng 0,283 gam.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Văn D phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội danh là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với người phụ nữ tên T khoảng 35 tuổi đã bán ma túy cho D ở gần Công ty Bảo Sơn tại thôn Đoàn Kết, xã Cổ Đông do Nguyễn Văn D không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể; cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa pH, xâm phạm đến chính sách thống nhất quản lý các chất ma túy của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý thể hiện sự coi thường pháp luật. Do đó cần có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Văn D không có tài sản riêng, không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với ma túy trong 01(một) phong bì niêm phong dán kín của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Văn D và cán bộ Công an xã Sơn Đông là Trương Quốc Phú cùng giám định viên Nguyễn Hoàng H là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ đen, Biển kiểm soát: 88C1-xxxxx, quá trình điều tra đã xác định là xe của chị Vũ Thị H là vợ của D. Khi D lấy xe đi mua ma túy thì chị H không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho chị H. Chi H nhận tại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với : 01(một) điện thoại MASSTEL, màu xanh đen, IMEIL 1:

359366096178134. IMEIL 2: 359366096178142, đã qua sử dụng: Do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn D: 15 ( Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 20/9/2022, được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: Ma túy bên trong 01(một) phong bì niêm phong dán kín của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Văn D và cán bộ Công an xã Sơn Đông là Trương Quốc Phú cùng giám định viên Nguyễn Hoàng H.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn D: 01(một) điện thoại MASSTEL, màu xanh đen, IMEIL 1: 359366096178134. IMEIL 2: 359366096178142. Điện thoại đã qua sử dụng, tình trạng máy không kiểm tra;

(Theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 21/11/2022 giữa Công an thị xã Sơn Tây và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và xử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn D phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo được quyền kháng cáo, Viện Kiểm sát được quyền kháng nghị trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 104/2022/HS-ST ngày 12/12/2022 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sơn Tây - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;