Bản án 104/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn giữa chị H và anh S

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 104/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH S

Ngày 03 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1026/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/01/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22/01/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị H; Sinh năm 1978;

Nơi cư trú: số 16A lô 19 đường A, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh S; Sinh năm 1975;

Nơi cư trú: số 16A lô 19 đường A, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh;

(Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/11/2020 cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ, nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày:

Chị H và anh Nguyễn Thanh S chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 212/2003, quyển số 02, đăng ký ngày 24/7/2003.

Trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do giữa chị H và anh S bất đồng quan điểm sống, bất đồng về suy nghĩ và cách giải quyết các vấn đề cuộc sống vợ chồng. Mặc dù đã nhiều lần tự hoà giải, hàn gắn nhưng mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng hơn, giữa vợ chồng không còn tiếng nói chung, không chia sẻ được các vấn đề trong cuộc sống gia đình nên cả hai đã không còn chung sống từ năm 2015 cho đến nay. Do đó, nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn anh S.

Về con chung: Có hai người con chung tên

1. Nguyễn Thị Thảo N, sinh ngày 26/12/1996.

2. Nguyễn Trần Quốc T, sinh ngày 07/3/2005.

Đối với con chung Thảo N đã thành niên nên chị H không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Đối với con chung Quốc T, chị H có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Chị H không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị H tự xác định giữa chị H và anh S không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị H tự xác định giữa chị H và anh S không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Thanh S đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án không ghi được lời khai, không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án và xét xử, Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, về thời hạn giải quyết vụ án đảm bảo theo quy định của pháp luật, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh Nguyễn Thanh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để hòa giải mà vẫn cố tình vắng mặt. Do vậy, theo quy định tại Điều 207 của Bộ Luật tố tụng dân sự, vụ án không thể tiến hành hòa giải được.

Anh S đã được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Giấy triệu tập dự phiên tòa xét xử đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh S theo quy định tại Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ Luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Trần Thị H có đơn đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét đơn khởi kiện của chị Trần Thị H thì đây là tranh chấp ly hôn theo yêu cầu một bên, do bị đơn là anh Nguyễn Thanh S hiện đang cư trú tại Quận 8 nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8 theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự.

[3] Về các yêu cầu của đương sự:

Chị Trần Thị H và anh Nguyễn Thanh S chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 212/2003, quyển số 02, đăng ký ngày 24/7/2003, nên xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp phù hợp với Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3.1] Xét yêu cầu ly hôn của chị H, chị H trình bày trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do giữa chị H và anh S bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên gây tranh cãi. Dù chị H đã cố gắng hòa giải nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng không còn sự chia sẻ và tôn trọng nhau, cuộc sống gia đình không có hạnh phúc. Tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không còn đạt được nên chị H yêu cầu được ly hôn. Căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu của chị H là có căn cứ cần giải quyết.

Xét thấy anh S đã được Tòa án triệu tập nhiều lần đến Tòa để tạo điều kiện cho hai bên hòa giải đoàn tụ gia đình nhưng anh S vẫn vắng mặt và cũng không có mặt tại phiên tòa xét xử, điều này thể hiện anh S không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, tình cảm vợ chồng giữa chị H và anh S không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không còn đạt được, nên yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ cần chấp nhận vì phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3.2] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Có hai người con chung tên:

+ Nguyễn Thị Thảo N, sinh ngày 26/12/1996.

+ Nguyễn Trần Quốc T, sinh ngày 07/3/2005.

Đối với con chung Thảo N đã thành niên và đương sự không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Đối với con chung Quốc T: Chị H có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Chị H không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.

Ngày 31/12/2020, qua việc lấy lời khai, trẻ Quốc T đã thể hiện nguyện vọng muốn được sống chung với chị H.

Xét yêu cầu của chị H, ý kiến của cháu Quốc T là phù hợp với Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình mặt khác cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung và đảm bảo quyền lợi của con nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giao con chung Quốc T cho chị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn, ghi nhận việc chị H không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H tự khai giữa chị H và anh S không có tài sản chung và không nợ gì của ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, do chưa có ý kiến của anh S về các vấn đề này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết, nếu sau này có tranh chấp, các bên có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết bằng một vụ án khác.

[4] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 207, Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13;

Áp dụng:

- Các Điều 8, 9, 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13;

- Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Thanh S.

2. Về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Có hai người con chung tên:

+ Nguyễn Thị Thảo N, sinh ngày 26/12/1996. Đã thành niên và đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

+ Nguyễn Trần Quốc T, sinh ngày 07/3/2005.

Giao con chung Nguyễn Trần Quốc T cho chị Trần Thị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Ghi nhận việc chị H không yêu cầu anh Nguyễn Thanh S cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh S có quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết. Trường hợp có tranh chấp, các bên có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), bà Trần Thị H phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0044587 ngày 23/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo: Chị H, anh S có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự; Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo các Điều 6, 7, 7a, 7b, và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 104/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp ly hôn giữa chị H và anh S

Số hiệu:104/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;