Bản án 104/2021/DSST ngày 17/09/2021 về kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 104/2021/DSST NGÀY 17/09/2021 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17/9/2021 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 65/2021/TLST-DS, ngày 01/3/2021, về việc “Kiện tranh chấp HĐ vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2021/QĐST-DS ngày 13/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 125/2021/QĐST- DS ngày 01/9/2021 giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam. Địa chỉ: Số 35 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức Tú – Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Văn Thanh Cường – Giám đốc chi nhánh BIDV Bắc Đăk Lăk.

Ông Cường ủy quyền lại cho ông Hoàng Văn Khoa – Phó giám đốc phòng giao dịch Ea H’Leo. Có đơn xin xét xử vắng mặt Địa chỉ: Số 546 đường Giải Phóng, thị trấn Ea Đrăng, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Ông Y S Niê, sinh năm 1979 và bà H’B Ayũn, sinh năm 1984. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Địa chỉ: Buôn Tr, xã E, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 27/12/2016 ông Y S Niê và bà H’B Ayũn ký HĐ tín dụng vay tại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền là 300.000.000 đồng, lãi suất 11.5%/năm, thời hạn 12 tháng. Ngày 28/01/2021 ông Y S Niê và bà H’B Ayũn đã trả được 206.200.000 đồng tiền nợ gốc, hiện còn nợ lại 93.800.000 đồng.

Tại HĐ thế chấp ông Y S Niê và bà H’B Ayũn đã thế chấp 01 quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 481004 do UBND huyện C cấp ngày 25/01/2014 cho ông Y S Niê và bà H’B Ayũn.

Để đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng và không bị ảnh hưởng xấu bởi việc mất khả năng trả nợ của bên đi vay. Vì ông Y S Niê và bà H’B Ayũn vi phạm thời hạn trả nợ, nên Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam đề nghị ông Y S Niê và bà H’B Ayũn phải có nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền nợ nói trên là 139.120.790 đồng (đã khấu trừ 3.669.791 đồng tiền lãi ông Y S Niê và bà H’B Ayũn đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 93.800.000 đồng, lãi trong hạn 37.079.266 đồng, lãi quá hạn 11.911.315 đồng (lãi tạm tính đến ngày 17/9/2021).

Trưng hợp ông Y S Niê và bà H’B Ayũn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị Tòa án xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo thu hồi nợ.

Ngoài ra, không có yêu cầu nào khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án ông Y S Niê là bị đơn trình bày:

Ngày 27/12/2016 ông Y S Niê và bà H’B Ayũn ký HĐ tín dụng vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền 300.000.000 đồng, đã trả được 206.200.000 đồng. Hiện còn nợ lại Ngân hàng 93.800.000 đồng tiền nợ gốc và lãi suất, do đầu tư làm ăn thua lỗ không có tiền trả nợ đúng kỳ hạn, ông Y S Niê thừa nhận còn nợ số tiền nợ gốc và lãi suất như Ngân hàng đã khởi kiện. Khi vay ông Y S Niê và bà H’B Ayũn có thế chấp 01 quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 481004 UBND huyện C cấp ngày 25/01/2014.

Nay Ngân hàng khởi kiện, ông Y S Niê và bà H’B Ayũn chưa có khả năng trả nợ ngay cho Ngân hàng được, ông Y S Niê xin hẹn trả nợ cho Ngân hàng vào cuối năm 2022.

Quá trình điều tra, xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ bà H’B Ayũn là bị đơn: Cố tình lẩn tránh, không hợp tác nên không ghi nhận được ý kiến của bà H’B Ayũn và bà H’B Ayũn cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào liên quan đến vụ án cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các đương sự do chủ tọa phiên tòa đã công bố tại phiên tòa thể hiện việc Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam khởi kiện yêu cầu ông Y S Niê và bà H’B Ayũn trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 93.800.000 đồng tiền nợ gốc và lãi suất phát sinh theo hợp đồng là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, 466 Bộ luật dân sự, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam khởi kiện ông Y S Niê và bà H’B Ayũn tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết về tranh chấp HĐ vay tài sản là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập bà H’B Ayũn là bị đơn đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng bà H’B Ayũn vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi ông Y S Niê và bà H’B Ayũn cư trú, theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt. Sau khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng đã cung cấp 01 hợp đồng tín dụng số 01/2016/9310593/HĐTD ngày 27/12/2016 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất số 01/2016/9310593/HĐBĐ ngày 21/12/2016 thể hiện việc ông Y S Niê và bà H’B Ayũn vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền là 300.000.000 đồng, đã trả được 206.200.000 đồng tiền nợ gốc. Hiện ông Y S Niê và bà H’B Ayũn còn nợ Ngân hàng 93.800.000 đồng tiền nợ gốc, lãi suất phát sinh.

Mặc dù không ghi nhận được ý kiến của bà H’B Ayũn về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam. Tuy nhiên, tại Kết luận giám định số:

120/KLGĐ-PC09 ngày 23/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ ký, chữ viết mang tên Y S Niê trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A2 so với chữ ký, chữ viết đứng tên Y S Niê trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 và M3 là do cùng một người ký và viết ra.

Chữ ký, chữ viết mang tên H’B Ayũn trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ ký, chữ viết đứng tên H’B Ayũn trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 là do cùng một người ký và viết ra.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Y S Niê cũng đã thừa nhận còn nợ Ngân hàng 93.800.000 đồng tiền nợ gốc và lãi suất phát sinh và hẹn trả nợ vào cuối năm 2022, nhưng Ngân hàng không đồng ý.

Như vậy, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng cho vay” được quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự, nên có đủ căn cứ pháp lý xác định ngày 27/12/2016 ông Y S Niê và bà H’B Ayũn ký hợp đồng tín dụng, vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam với số tiền là 300.000.000 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng, đến kỳ hạn trả nợ nhưng ông Y S Niê và bà H’B Ayũn không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên vay được quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự và vi phạm trong Hợp đồng tín dụng. Từ những phân tích trên, xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam là có căn cứ, nên cần chấp nhận, buộc ông Y S Niê và bà H’B Ayũn phải trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền hiện còn nợ là 139.120.790 đồng (đã khấu trừ 3.669.791 đồng tiền lãi ông Y S Niê và bà H’B Ayũn đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 93.800.000 đồng, lãi trong hạn 37.079.266 đồng, lãi quá hạn 11.911.315 đồng (lãi tạm tính đến ngày 17/9/2021). Ông Y S Niê và bà H’B Ayũn phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng kể từ ngày 18/9/2021 cho đến khi ông Y S Niê và bà H’B Ayũn trả hết nợ cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.

Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, ông Y S Niê và bà H’B Ayũn ký “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất” số 01/2016/9310593/HĐBĐ ngày 21/12/2016 thế chấp 01 quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 481004 do UBND huyện C cấp ngày 25/01/2014 cho ông Y S Niê và bà H’B Ayũn và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất xác lập tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật về nội dung cũng như hình thức theo quy định tại Điều 317; Điều 318; Điều 319; Điều 325 Bộ luật dân sự; điểm a khoản 1 Điều 4; khoản 1 Điều 5; Điều 6; khoản 3 Điều 9; khoản 2 Điều 39 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về việc đăng ký biện pháp bảo đảm. Do vậy, thuộc trường hợp những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Hợp đồng thế chấp được xác lập phù hợp với quy định của pháp luật, nên các tài sản thế chấp được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khi ông Y S Niê và bà H’B Ayũn không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Nếu ông Y S Niê và bà H’B Ayũn thanh toán đủ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam thì phía Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có nghĩa vụ giải chấp tài sản thế chấp.

[3]. Về án phí và chi phí tố tụng khác: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam được chấp nhận, nên buộc ông Y S Niê và bà H’B Ayũn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 317; Điều 318; Điều 319; Điều 325; Điều 463 và khoản 1, 3, 5 Điều 466 Bộ luật dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.

Buộc ông Y S Niê và bà H’B Ayũn trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền 139.120.790 đồng (đã khấu trừ 3.669.791 đồng tiền lãi ông Y S Niê và bà H’B Ayũn đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 93.800.000 đồng, lãi trong hạn 37.079.266 đồng, lãi quá hạn 11.911.315 đồng (lãi tạm tính đến ngày 17/9/2021).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Y S Niê và bà H’B Ayũn còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông Y S Niê và bà H’B Ayun phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp ông Y S Niê và bà H’B Ayũn không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có quyền yêu cầu Chi cục THADS huyện Ea H’Leo xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR 481004 do UBND huyện C cấp ngày 25/01/2014 cho ông Y S Niê và bà H’B Ayũn để thu hồi nợ.

Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 155; khoản 2 Điều 156; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 158; Điều 159; khoản 2 Điều 161; khoản 1 Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Y S Niê và bà H’B Ayũn phải chịu 5.600.000 đồng tiền chi phí giám định và 2.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 5.600.000 đồng tiền chí phí giám định và 2.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định đã nộp sau khi thu được từ ông Y S Niê và bà H’B Ayũn.

Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 6 Điều 19; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Ông Y S Niê và bà H’B Ayũn phải chịu 6.956.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 3.085.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2019/0012450 ngày 25/02/2021.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 104/2021/DSST ngày 17/09/2021 về kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:104/2021/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;