Bản án 104/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 104/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 105/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102 /2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đinh Văn H, sinh năm 1981 tại Đông Triều, Quảng Ninh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu M, phường H, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Văn T và bà Đỗ Thị V; Có vợ là Lò Thị T T và hai con (con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012); Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ ngày 17 tháng 7 năm 2019; Bị tạm giam từ ngày 20 tháng 7 năm 2019 (hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh). Có mặt.

2. Trịnh Văn T (tên gọi khác: Trịnh Quốc K), sinh năm 1983 tại Đông Triều, Quảng Ninh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu B, phường Đ, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trịnh Quốc D và bà Đoàn Thị H; Đang sống chung như vợ chồng với chị Nguyễn Thị T và có một con (sinh năm 2003);

Tiền án: Ngày 22 tháng 11 năm 2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 07 năm 09 tháng tù về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Trộm cắp tài sản”, chấp hành hình phạt tù đến 24 tháng 02 năm 2013 về địa phương. Ngày 10 tháng 3 năm 2015, bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành hình phạt tù đến ngày 09 tháng 02 năm 2018 về địa phương.

Tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ ngày 17 tháng 7 năm 2019; Bị tạm giam từ ngày 20 tháng 7 năm 2019 (hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh). Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Cao Văn Qt, sinh năm 1984. Địa chỉ: Khu M, phường X, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Đặng Anh Q và ông Bùi Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ 40 phút ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại đường bê tông dẫn lối nên bến Phà Triều (thuộc thôn Bến Triều, xã Hồng Phong, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh), Công an thị xã Đông Triều bắt quả tang Đinh Văn H và Trịnh Văn T (tên gọi khác là Trịnh Quốc K) có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ tại nền đường bê tông sát vị trí H và T đang đứng một gói giấy màu xanh kích thước (1x1,5)cm, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục. Ngoài ra còn thu giữ của Đinh Văn H một điện thoại di động nhãn hiệu Viettel; thu giữ của Trịnh Văn T một điện thoại Masstel.

Tại Bản kết luận giám định số 657/GĐMT, ngày 18 tháng 7 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất bột màu trắng thu của Đinh Văn H và Trịnh Văn T là ma túy, loại Heroine; khối lượng: 0,106 gam (Không phẩy một không sáu gam).

Bản cáo trạng số 107/CT-VKS-ĐT ngày 25 tháng 10 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Đinh Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Trịnh Văn T (tên gọi khác: Trịnh Quốc K) về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo Điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và luận tội có quan điểm: Vẫn giữ nguyên quan điểm như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Văn H và bị cáo Trịnh Văn T (tên gọi khác: Trịnh Quốc K) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về trách nhiệm hình sự:

- Đề nghị áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điều 17, Điều 58 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 17 tháng 7 năm 2019);

- Đề nghị áp dụng Điểm o Khoản 2 Điều 249, Điều 17, Điều 58 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Văn T (tên gọi khác: Trịnh Quốc K) từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 17 tháng 7 năm 2019).

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu và tiêu hủy: Một phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh (bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định).

+ Trả lại bị cáo Đinh Văn H một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel; trả lại bị cáo Trịnh Văn T một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì đối với luận tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về hành vi của bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều đã truy tố:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Đinh Văn H và Trịnh Văn T đều khai nhận:

Khong 07 giờ ngày 17 tháng 7 năm 2019, H gặp T ở khu vực quán nước gần cổng Trung tâm y tế thị xã Đông Triều, H rủ T góp mỗi người 100.000 đồng để mua ma túy (loại Heroine) về sử dụng và T đồng ý. Sau đó, T mượn xe mô tô (biển kiểm soát 29R – 00..) của anh Cao Văn Q đi mua hai bơm kim tiêm và một lọ nước cất, rồi cùng H sang bên kia phà Triều (thuộc địa phận xã Thất Hùng, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) để mua ma túy. Sang đến nơi, T đứng ở bến phà còn H đi mua hai gói ma túy với giá 200.000 đồng, rồi quay lại chỗ T ra hiệu đã mua được ma túy. Sau đó, H và T đi xe mô tô lên trên phà (được lai dắt bằng tàu đẩy) để về thị xã Đông Triều. Thấy phía sau tẩu đẩy không có người, H và T rủ nhau đi sang đó để sử dụng ma túy.Tại đây, H và T ngồi đối diện nhau, T bỏ bơm kim tiêm và lọ nước cất mua trước đó ra, H pha một gói ma túy với nước cất rồi chia đều vào hai bơm kim tiêm để cùng sử dụng. Gói ma túy còn lại H cầm sang phà giấu vào khe giữa biển kiểm soát và chắn bùn xe mô tô. Khi phà cập bến, T điều khiển xe mô tô chở H đi lên trên bến phà thì bị Công an thị xã Đông Triều kiểm tra, dẫn tới xe mô tô bị đổ làm gói ma túy bị rơi xuống nền đường bê tông, thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Người chứng kiến anh Đặng Anh Q có lời khai: Khoảng 8 giờ 15 phút ngày 17 tháng 7 năm 2019, trong khi đang làm nhiệm vụ điều xe, soát vé tại Bến phà Triều (phía thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) thì anh được chứng kiến việc Công an thị xã Đông Triều bắt giữ hai người đi phà từ phía Kinh Môn sang, Công an khám xét hai người này và phát hiện một gói giấy xanh – trắng bên trong có chứa chất tinh bột màu trắng nằm ở dưới đường cạnh đuôi xe của hai người đi phà. Tại chỗ, hai người khách đi phà khai tên là Đinh Văn H, sinh năm 1981 trú tại M, H, Đông Triều và Trịnh Văn T, sinh năm 1983 trú tại khu B, phường Đ. Hai người bị bắt giữ khai chất bột màu trắng trong gói giấy bị thu giữ là ma túy (Heroine) hai người này mua về để sử dụng. Sau đó Công an thị xã Đông Triều đã tiến hành lập biên bản tthu giữ gói giấy chứa ma túy và đưa hai người nêu trên về trụ sở làm việc.

Người chứng kiến ông Bùi Văn T cũng có lời khai phù hợp với lời khai của anh Qu về quá trình Công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ ma túy do Đinh Văn H và Trịnh Văn T tàng trữ.

Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Cao Văn Q về quá trình sáng ngày 17 tháng 7 năm 2019 anh cho bị cáo T mượn xe mô tô để T đi có việc và các tình tiết khác đều phù hợp với lời khai của các bị cáo và diễn biến vụ án.

Xét thấy lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh lập hồi 08 giờ 48 phút ngày 17 tháng 7 năm 2019; Phù hợp với: Biên bản khám nghiệm hiện trường, Sơ đồ hiện trường, Bản ảnh khám nghiệm hiện trường, lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản kết luận giám định số 657/GĐMT, ngày 18 tháng 7 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất bột màu trắng thu của các bị cáo Đinh Văn H và Trịnh Văn T là ma túy, loại Heroine; khối lượng: 0,106 gam (Không phẩy một không sáu gam).

(Heroine nằm trong Danh mục IA, STT: 09; Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất).

Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 08 giờ 40 phút ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại Bến phà Triều (thuộc khu Bến Triều, phường Hồng Phong, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh các bị cáo Đinh Văn H và Trịnh Văn T (tên gọi khác là Trịnh Quốc K) đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,106 gam (Không phẩy một không sáu gam) ma túy loại Heroine thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Trong đó: hành vi phạm tội của bị cáo Đinh Văn H được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; đối với bị cáo Trịnh Văn T (tên gọi khác là Trịnh Quốc K) xét về khối lượng ma túy bị cáo tham gia tàng trữ chỉ thuộc quy định tại Khoản 1 Điều 249 nhưng do trước đây bị cáo đã “tái phạm” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội do lỗi cố ý nên thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” quy định tại Điểm o Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Do đó, Bản cáo trạng số 107/CT-VKS-ĐT ngày 25 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh và lời buộc tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và luận tội tại phiên tòa là có đủ cơ sở, cần được chấp nhận.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý và các chất gây nghiện, làm mất trật tự, an toàn xã hội. Chất ma tuý gây nguy hại đến sức khoẻ con người, ma túy cũng là mầm mống phát sinh các loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác, tạo nên nhiều bức xúc trong quần chúng nhân dân. Trong những năm qua Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị, xã hội đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm đấu tranh, ngăn chặn đối với các tội phạm về ma tuý; nhiều cuộc vận động, tuyên truyền về tác hại của ma tuý đã được tổ chức; rất nhiều tội phạm về ma tuý đã bị pháp luật trừng trị, nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, do vậy cần phải bị xử lý thật nghiêm trước pháp luật.

[3] Xét vai trò của các bị cáo thấy: Đây là vụ án đồng phạm mang tính chất giản đơn, cả hai bị cáo đều cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Tuy bị cáo H là người khởi xướng rủ bị cáo T góp tiền đi mua ma túy và trực tiếp mua ma túy nhưng bị cáo T lại là người chuẩn bị các điều kiện về phương tiện đi mua ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy nên Hội đồng xét xử xác định các bị cáo có vai trò tương đương nhau và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thấy:

Các bị cáo đều là những người xuất thân từ tầng lớp nhân dân lao động, chỉ vì ham chơi, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện nên dẫn đến phạm tội, sau khi phạm tội đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Riêng đối với bị cáo Trịnh Văn T đã hai lần bị kết án về hành vi có liên quan đến ma túy, mặc dù đây đã là tình tiết định khung hình phạt nhưng cũng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu.

Căn cứ vào nhân thân của các bị cáo, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian phù hợp thì mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý trong giai đoạn hiện nay và giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án và các vấn đề khác:

- Một phong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh (bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định) xét thấy có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, nhà nước cấm tàng trữ lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel (thu giữ của bị cáo Đinh Văn H) và một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel (thu giữ của bị cáo Trịnh Văn T) xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại các bị cáo.

- Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều đã trả lại anh Cao Văn Q một chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29R – 00.... Sau khi nhận lại xe đến nay anh Q không có đề nghị gì thêm nên không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Các bị cáo Đinh Văn H và Trịnh Văn T (tên gọi khác: Trịnh Quốc K) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điều 17, Điều 58 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Văn H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 17 tháng 7 năm 2019);

* Áp dụng: Điểm o Khoản 2 Điều 249, Điều 17, Điều 58 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Văn T (tên gọi khác: Trịnh Quốc K) 05 (Năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 17 tháng 7 năm 2019).

* Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu và tiêu hủy: Một phong bì niêm phong số 657/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh (bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định).

- Trả lại bị cáo Đinh Văn H một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel.

- Trả lại bị cáo Trịnh Văn T một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel. (Tình trạng các vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 08 ngày 28 tháng 10 năm 2019 giữa Công an thị xã Đông Triều và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đông Triều).

* Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Đinh Văn H và bị cáo Trịnh Văn T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự, các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 104/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;