TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 104/2019/HSST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Hôm nay, ngày 17 tháng 7 năm 2019. Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2019/HSST ngày 01 tháng 7 năm 2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/QĐ-HSST ngày 04 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: ĐẶNG ANH T. Tên gọi khác: Bom. Sinh ngày 03 tháng 9 năm 1992. Nơi sinh: Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: 1A/1 - đường T, Phường 10, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Chỗ ở: 1A/1 - Đường T, Phường 10, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông: Đặng Văn T1, sinh năm 1957; Con bà: Lê Thị L, sinh năm 1959. Hiện ở tại: 1A/1 - Đường T, Phường 10, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Vợ: Đinh Thị Thiên K, sinh năm 1996, chưa có con. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
1/ Ngày 27/5/2011 bị Công an Phường 10, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (Đã chấp hành xong);
2/ Tại bản án số 58/2012/HSST ngày 25/5/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 01/02/2013. Bị cáo hiện đang tại ngoại tại số: 1A/1 – đường T, Phường 10, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Có mặt.
Người bị hại : Chị Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1991.
Hiện cư trú tại: 163 - Gio An, Phường 5, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 30 ngày 23/7/2018, Đặng Anh T đang hành nghề xe ôm và phụ bán hàng tại khu vực Chợ đêm thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng thì gặp bạn cũng tên T (không rõ nhân thân, lai lịch), T nhờ Đặng Anh T chở đi lấy xe máy thì Đặng Anh T đồng ý, Đặng Anh T lấy xe mô tô biển kiểm soát 49K1-272.10 của mình chở T và L1 (cũng chưa xác định được lai lịch, địa chỉ) đi đến đường A, Phường N, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng, khi đến nơi thì Đặng Anh T dừng xe, đợi trên đường, còn T và L1 đi bộ xuống dốc. Khoảng 05 phút sau thì Đặng Anh T thấy T và L1 dắt lên 01 chiếc xe mô tô mà không nổ máy, lúc này Đặng Anh T đã nghi ngờ đây không phải là xe của T và L1 mà là xe trộm cắp, nhưng Đặng Anh T không hỏi. Khi T và L1 đẩy xe lên hết dốc thì T ngồi lên chiếc xe kia, còn Đặng Anh T chở L1, L1 nói T đi nhanh. Lúc này Đặng Anh T chắc chắn là chiếc xe kia do T và L1 trộm cắp mà có, nên Đặng Anh T cũng không dám cho xe của mình nổ máy vì sợ gây ra tiếng ồn mà cho xe xổ xuống dốc Gio An, chạy theo T. Khi xổ xuống hết dốc Gio An, đến đường Hoàng Văn Thụ thì cả ba chạy vào một con hẻm, T và L1 bẻ áo xe, giật dây điện của chiếc xe trộm cắp được để nổ máy xe, nhưng xe không nổ máy. Khi đó T và L1 thỏa thuận với Đặng Anh T: Cả ba cùng nhau đem chiếc xe này đi giấu, sau đó đem bán lấy tiền chia ba, thì Đặng Anh T đồng ý, sau đó T đem giấu chiếc xe trên vào một con hẻm khác, rồi Đặng Anh T chở T và L1 trở lại chợ đêm.
Đến 01 giờ sáng ngày 24/7/2018, T đem theo một sợi dây dù ra chợ đêm gặp Đặng Anh T rồi nói Đặng Anh T chở T quay lại chỗ giấu xe để đem xe lên Nghĩa trang Du Sinh giấu, đến sáng sẽ đem đi bán thì Đặng Anh T đồng ý. Đến chỗ giấu xe, T dùng sợi dây dù cột vào đầu xe của mình rồi bảo Đặng Anh T chạy xe của T kéo xe kia lên Nghĩa trang Du Sinh giấu, sau đó T hẹn Đặng Anh T là lúc 07 giờ sáng cùng ngày sẽ lên lấy xe đi bán.
Khoảng 07 giờ sáng cùng ngày 24/7/2018, Đặng Anh T chở T lên Nghĩa trang Du Sinh, cùng T kéo chiếc xe trộm cắp đến một tiệm sửa xe ở Khu C5, Phường 4, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng để bán, nhưng tiệm này chưa mở cửa nên cả hai đưa xe xuống khu vực Hồ Tuyền Lâm để giấu. Sau đó Đặng Anh T chở T đi gặp L1 rồi cả ba cùng đi đến tiệm sửa xe Hoàng ở đường An Bình, Phường 3, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng để hỏi bán xe với giá 1.500.000 đồng và tiếp theo Đặng Anh T chở chủ tiệm sửa xe Hoàng đến chỗ giấu xe để xem xe. Khi chủ tiệm sửa xe đồng ý mua thì Đặng Anh T cùng T đưa xe về tiệm sửa xe Hoàng. Lúc này T và L1 hỏi mượn xe của Đặng Anh T để đi công việc thì Đặng Anh T đồng ý. Sau khi T và L1 đi một lúc thì có cán bộ Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng đến tiệm sửa xe Hoàng, yêu cầu Đặng Anh T về cơ quan Công an làm việc, tại cơ quan Công an Đặng Anh T đã khai nhận toàn bộ sự việc như đã nêu trên.
Tại Biên bản định giá ngày 14/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Lạt kết luận: Tài sản của chị Nguyễn Thị Kim C bị chiếm đoạt là 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 49B1-137.81, giá trị còn lại 40%, trị giá 8.400.000 đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ xe và giao trả lại cho chị Nguyễn Thị Kim C, chị Chi không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không ai có ai thắc mắc, khiếu nại gì đối với Biên bản của Hội đồng định giá tài sản nêu trên.
Tại Cáo trạng số 96/CT-VKS ngày 26/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố Đặng Anh T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Anh T khai nhận vào tối ngày 23/7/2018, bị cáo đã có hành vi chở T và L1 (cả hai đều không rõ lai lịch, địa chỉ) vào đường Gio An, Phường 5, thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng để lấy xe, khi biết xe do T và L1 trộm cắp mà có, bị cáo đã thống nhất cùng T, L1 đem đi cất giấu và sáng hôm sau cùng đem đi bán với mục đích để lấy tiền chia nhau, nhưng khi chưa bán được xe thì đã bị phát hiện và bị bắt giữ, bị cáo thừa nhận đã thực hiện việc phạm tội với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Đặng Anh T đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo Đặng Anh T đã có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 323; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Anh T từ 12 đến 15 tháng tù. Phần bồi thường: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản và đã trả lại cho người bị mất, tại phiên tòa người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét. Về vật chứng của vụ án, các vật chứng thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 49B1- 137.81, Cơ quan điều tra đã có Quyết định xử lý bằng cách trả lại cho chủ sở hữu nên không xem xét để giải quyết tiếp; phần còn lại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và xử lý theo qui định của pháp luật.
Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo và người bị hại đều không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.
Về hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Anh T:
Bị cáo Đặng Anh T là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc tiêu thụ tài sản của người khác bị kẻ gian chiếm đoạt là không được pháp luật cho phép, khi T và L1 trộm cắp xe bị cáo không được biết và không tham gia, nhưng sau đó, khi bị cáo đã biết rõ nguồn gốc xe là do T và L1 trộm cắp mà có, bị cáo vẫn nhận lời T và L1, đem xe này đi giấu ở nhiều nơi, sau đó giúp T và L1 đem đi tiêu thụ với mục đích để được chia tiền. Hành vi của bị cáo thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và góp phần giúp T và L1 thực hiện trót lọt mục đích của việc chiếm đoạt tài sản của người khác và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Đặng Anh T đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm vào tình tiết định khung tăng nặng nào theo qui định tại điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:
Bị cáo Đặng Anh T không có tình tiết tăng nặng nào theo qui định tại điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
Sau khi bị phát hiện, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tài sản đã được thu hồi. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản và trả lại cho người bị hại là chị Nguyễn Thị Kim C. Đến nay người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không xem xét để giải quyết phần trách nhiệm dân sự đối với bị cáo trong bản án này.
Về xử lý vật chứng:
Các loại vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có:
+ 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 49B1-137.81, là xe của chị Nguyễn Thị Kim C và 01 điện thoại di động hiệu Mobell, màu hồng (đã qua sử dụng), là tài sản bị cáo, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu nên không xem xét để xử lý tiếp trong bản án này.
Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] . Tuyên bố bị cáo Đặng Anh T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
[2] . Áp dụng khoản 1 điều 323; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo: Đặng Anh T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
[3] . Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] . Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 104/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 104/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/07/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về