TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 104/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2017/HSST ngày 31 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn C; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 31/01/1990.
Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Bản P, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên.
Dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không.
Nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 9/12.
Con ông: Lò Văn O, sinh năm 1958; con bà: Lường Thị T, sinh năm 1965. Bị cáo có vợ: Lò Thị L, sinh năm 1990 và có 01 người con sinh năm 2011. Tiền sự: Không; tiền án: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 27/6/2017 và tạm giam từ ngày 30/6/2017 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất áp giải có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Xuân, Luật sư - Cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, (có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Lò Văn C bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 10 giờ ngày 27/6/2017, do lên cơn nghiện nên Lò Văn C đã đi nhờ xe máy của một người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) từ bản P, xã M, huyện T đến khu vực bản T, xã M, huyện T để tìm mua Hêrôin sử dụng. Khi đến bản T C xuống xe đi bộ dọc đường trong bản thì gặp một người đàn ông (không biết tên, địa chỉ) nhìn giống người nghiện, C hỏi “Có Hêrôin bán không”, người đàn ông trả lời và hỏi “Có, mua bao nhiêu”. C trả lời “Bán cho hai trăm rưỡi” rồi lấy tiền đưa cho người đàn ông đó. Người đàn ông lấy trong người ra 01 gói Hêrôin được gói bằng túi ni lon màu xanh đưa cho C. Sau khi mua được Hêrôin C cất giấu trong túi áo ngực đang mặc rồi đi bộ về đến khu vực bản H, xã N, huyện T chui vào bụi cây ven đường để sử dụng Hêrôin nhưng do không tìm thấy xi lanh tiêm mà hôm trước C đã sử dụng cất giấu ở đó, nên C quay ra đường để đi tìm giấy bạc sử dụng Hêrôin thì bị Công an phát hiện bắt quả tang. Thu giữ 01 gói Hêrôin, 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL màu đỏ đen và 50.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngày 27/6/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tuần Giáo tiến hành mở niêm phong xác định trọng lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng: 01 gói chất bột màu trắng nghi Hêrôin thu giữ của Lò Văn C có trọng lượng là 0,14 gam. Ngày 28/6/2017 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo ra Quyết định trưng cầu giám định số: 109/QĐTCGĐ. Tại bản Kết luận giám định số: 628/GĐ-PC54 ngày 27/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu vật gửi giám định được trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn Còi là chất ma túy: Loại Hêrôin”.
Tại bản Cáo trạng số: 74/QĐ-VKS-HS ngày 31 tháng 8 năm 2017, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Văn C về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 về áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội. Vì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn so với khung hình phạt của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có trọng lượng 0,1 gam Hêrôin; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL vỏ màu - đỏ đen và 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) Công an tạm giữ không liên quan đến hành vi phạm tội, nên đề nghị trả lại cho bị cáo. Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn C nhất trí với bản Cáo trạng, Luận tội của Viện kiểm sát xét xử bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và nhất trí với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, được đi học hết lớp 9. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt, không áp dụng hình phạt bổ sung; trả lại số tiền 50.000đ, 01 điện thoại di động và miễn án phí hình sự sơ thẩm bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của bị cáo, người bào chữa và Kiểm sát viên.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn C đã khai và thừa nhận: Vào khoảng 10 giờ ngày 27/6/2017 bị cáo mua 01 gói Hêrôin với giá 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng) của một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) tại khu vực bản bản T, xã M, huyện T. Mục đích bị cáo mua Hêrôin để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng, thì bị Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang thu giữ. Lời khai nhận tội của bị cáo Lò Văn C phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong vật chứng ngày 27/6/2017; biên bản ghi lời khai và biên bản hỏi cung bị cáo tại Cơ quan điều tra; biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng; kết luận giám định 0,14 gam chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo Lò Văn C gửi giám định là chất ma túy: Loại Hêrôin. Ngoài ra lời khai của bị cáo còn phù hợp với bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, các tài liệu và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trong phần tranh luận, bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên về phần tội danh c ng như khung hình phạt. Căn cứ vào hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Lò Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Bị cáo phạm tội trước ngày bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 về áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội thì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn so với khung hình phạt của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét quyết định mức hình phạt cho bị cáo.
Bởi vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố bị cáo theo tội danh, khoản và điều nêu trên là hoàn toàn chính xác.
Xét tính chất và mức độ phạm tội thấy: Bị cáo Lò Văn C phạm tội nghiêm trọng. Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý. Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an và an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Hiện nay tệ nạn nghiện chất ma túy tại huyện Tuần Giáo đang phát triển theo chiều hướng rất xấu trong một bộ phận thanh thiếu niên, tạo sự lo lắng cho toàn huyện Tuần Giáo. Nghiện chất ma túy không chỉ gây mất trật tự an toàn xã hội, băng hoại đạo đức thế hệ trẻ mà còn lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng qua đường tiêm chích. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích nhu cầu cá nhân, bị cáo đã bất chấp pháp luật tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.
Xét tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Lò Văn C thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lò Văn C sinh ra lớn lên tại xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên, được đi học hết lớp 9, sau đó nghỉ học ở nhà lao động sản xuất; năm 2009 kết hôn; năm 2014 nghiện chất ma túy. Ngày 27/6/2017 bị bắt về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.
Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và gia đình là hộ nghèo. Thu nhập của bị cáo chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp, nên không có khả năng thi hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn C từ 12 tháng đến 15 tháng tù, không phạt bổ sung bằng tiền và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.
Xét đề nghị của người bào chữa đề nghị cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với người đàn ông, bị cáo khai đã bán Hêrôin cho bị cáo vào ngày 27/6/2017. Qua điều tra bị cáo khai khi trao đổi mua bán ma túy chỉ có bị cáo và người đàn ông biết với nhau, ngoài ra không có ai biết. Do vậy, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với người đàn ông đã cho Lò Văn C đi nhờ xe máy, qua điều tra C khai không biết tên, nơi ở của người đó và C chỉ đi nhờ xe chứ không trả tiền hay ma túy cho người đó nên, cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vật chứng vụ án: Đối với 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có trọng lượng 0,1 gam Hêrôin cần tịch thu và tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL vỏ màu - đỏ đen và 50.000đ (năm mươi nghìn đồng)
Công an đã tạm giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và gia định thuộc diện nghèo, cần căn cứ vào Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội. Xử phạt bị cáo Lò Văn C 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 27/6/2017.
3. Vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có trọng lượng 0,1 gam Hêrôin; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL vỏ màu - đỏ đen và 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/09/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.
4. Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/9/2017).
Bản án 104/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 104/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về