TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 103/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 206/2022/TLST – HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp L, xã BC, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn P, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp 5, xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 01-6-2022 và trong quá trình tố tụng tại Tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày:
Về hôn nhân: Bà chung sống với ông Huỳnh Văn P vào năm 2008 và đến năm 2009 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 25-6-2009 (giấy chứng nhận kết hôn số 73). Hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không ai mai mối, ép buộc. Sau khi kết hôn bà D và ông P chung sống hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông P nhậu nhẹt, không lo cho gia đình con cái và còn hành hung, đánh đập bà D. Mặc dù vợ chồng đã nhiều lần hòa giải và thông cảm bỏ qua cho nhau nhưng không thành, trái lại mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể nào khắc phục được. Từ đầu năm 2022 đến nay bà D và ông P sống ly thân nhau, bà D về nhà cha mẹ ở xã BC sinh sống, còn ông P sinh sống tại xã H. Nay bà D xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà và ông P không còn nên bà xin ly hôn với ông P.
Về nuôi con chung: Bà D và ông P có 02 con chung là Huỳnh Thị Mỹ L, sinh ngày 15/8/2008 và Huỳnh Thị Mỹ V, sinh ngày 25/7/2013. Hiện các con chung đang ở với bà D. Bà D yêu cầu nuôi dưỡng các con chung và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn ông Huỳnh Văn P:
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông P vẫn không đến Tòa án tham gia giải quyết, không có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa:
Bà D có đơn xin vắng mặt và giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông P. Ông P đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Các đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn bà D đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; bị đơn ông P vắng mặt trong quá trình tố tụng là không chấp hành quy định theo các Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu khởi kiện của bà D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà Nguyễn Thị D yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Huỳnh Văn P nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; bị đơn ông P có địa chỉ cư trú tại huyện X nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, bà D vắng mặt có đơn xin vắng mặt, ông P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà D, ông P theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Bà D và ông P chung sống với nhau vào năm 2008 và đăng ký kết hôn vào ngày 25/6/2009 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, bà D và ông P phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông P chơi bời, nhậu nhẹt, không lo làm ăn, không lo cho con cái, có lần còn hành hung bà D nên vợ chồng thường xuyên cãi vã. Theo bà D hôn nhân của bà và ông P không có hạnh phúc. Tại Tòa bà xác định không còn tình cảm với ông P nên yêu cầu được ly hôn.
Kết quả xác minh cho thấy: Bà D và ông P chung sống với nhau vào năm 2008 tại ấp 5, xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Quá trình chung sống ở địa phương không thấy bà D và ông P xảy ra mâu thuẫn, nhưng gần đây bà D và ông P không sống chung với nhau nữa. Ông P đi làm xa thi thoảng về nhà cha mẹ tại ấp 5, xã H. Bà D và ông P có 02 chung chung hiện ở với bà D.
Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa ông P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, điều đó cho thấy bản thân ông P không có thiện chí mong muốn đoàn tụ vợ chồng.
Từ những tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp; thực tế xác minh tại địa phương cho thấy mâu thuẫn giữa bà D và ông P là có thật, theo chiều hướng kéo dài và trầm trọng, ông, bà đã thực sự không còn tình cảm với nhau, không chung sống cùng nhau, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D đối với ông P.
[2.2] Về nuôi con chung: Bà D và ông P có 02 con chung là Huỳnh Thị Mỹ L và Huỳnh Thị Mỹ V, hiện các con chung đang ở với bà D. Sau khi ly hôn bà D yêu cầu nuôi dưỡng các con chung và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ khi vợ chồng ly thân, cháu Linh và cháu Vy sống ổn định cùng bà D, các cháu phát triển bình thường, đồng thời cháu Linh và cháu Vy có nguyện vọng ở với bà D, do đó để tránh xáo trộn trong tâm lý, sinh hoạt của các cháu. Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình. Giao con chung là Huỳnh Thị Mỹ L và Huỳnh Thị Mỹ V cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng. Bà D không yêu cầu ông P cấp dưỡng nên không xem xét.
[2.3] Về chia tài sản: Bà D không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Bà D là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[5] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy đình về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị D ly hôn ông Huỳnh Văn P.
2. Về nuôi con chung: Giao con chung Huỳnh Thị Mỹ L, sinh ngày 15/8/2008 và Huỳnh Thị Mỹ V, sinh ngày 25/7/2013 cho bà Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Bà D không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ đối với con chung. Người không trực tiếp nuôi dưỡng con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không được ai cản trở.
Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha hoặc mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về chia tài sản: Không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm bà D đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011135 ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà D đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 103/2022/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 103/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về