TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 103/2021/HSST NGÀY 27/05/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 5 năm 2021 tại hội trường xét xử 1, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (60 đường Nguyễn Huệ) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2021/HSST ngày 13 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:
Võ Văn Q (tên gọi khác: Không), sinh ngày 04/9/1996 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Thôn TT, xã PT, huyện PV, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ K (chết) và con bà Trương Thị T (sinh năm 1972); Anh chị em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ hai; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Từ nhỏ đến lớn ở với gia đình, học văn hóa đến lớp 10/12 thì nghỉ học, ở nhà không có nghề nghiệp;
Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, tỉnh Thừa thiên Huế từ ngày 07/11/2020, đến ngày 30/3/2021 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh - Bị cáo có mặt.
- Bị hại:
1. Anh Nguyễn Quang N, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Xóm 6, thôn TT, xã PA, huyện PV, tỉnh Thừa Thiên Huế - Vắng mặt.
2. Chị Nguyễn Thị Xuân H, sinh năm 1995, trú tại: Thôn VK, xã TT, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế - Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Đăng S, sinh năm 1997, trú tại: Thôn 8, xã ĐH, huyện PĐ, tỉnh Thừa Thiên Huế - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 13/12/2020, Võ Văn Q đang đi bộ trên đường NSC, phường VD, thành phố H thì nhận được điện thoại của anh Nguyễn Quang N hẹn gặp. Sau đó, anh N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, biển số 75H1-470.68 chở Q đến quán internet ở số 123 NSC, phường VD, thành phố H chơi game. Do thiếu tiền tiêu xài nên Võ Văn Q nảy sinh ý định lấy xe mô tô của anh N để đi cầm cố. Q nói dối với N là cho mượn xe một lúc đi mua đồ và anh N đồng ý. Sau đó, Q điều khiển xe mô tô của anh N đến quán cà phê “Ken”, địa chỉ đường PVĐ, phường VD, thành phố H cầm cố cho anh Nguyễn Đăng S với số tiền 20.000.000 đồng và để lại chứng minh nhân dân của Q cho anh S.
Khoảng 12 giờ cùng ngày, sau khi cầm cố xe mô tô của anh N, Võ Văn Q đi bộ ngang qua cửa hàng áo quần tại số 51 LH, phường VD, thành phố H thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển số 75G1-139.71 của chị Nguyễn Thị Xuân H đang để trước cửa hàng. Q nhìn thấy chìa khóa xe mô tô đang treo ở cửa chính của cửa hàng nên lấy trộm rồi mở khóa điện xe mô tô điều khiển tẩu thoát. Đến khoảng 10 giờ ngày 14/12/2020, do không tìm được nơi tiêu thụ nên Q đã đưa xe mô tô về trả lại cho chị H.
Vật chứng, tài liệu thu giữ gồm:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i, biển số 75H1-470.68, màu sơn:
Trắng (xe đã qua sử dụng);
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn: Đỏ, biển số 75G1- 139.71 (xe đã qua sử dụng);
- 01Giấy chứng minh nhân dân số 191882146 mang tên Võ Văn Q (bản sao);
- 01 Giấy chứng minh nhân dân số 1918582788, 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 75H1-470.68, 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 460145895440, 01 thẻ sinh viên Khoa Giáo dục thể chất - Đại học Huế, tất cả mang tên Nguyễn Quang N;
- 01 thẻ khách hàng ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) chi nhánh Nam sông Hương mang tên Nguyễn Thị Xuân H;
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐGTS ngày 22/12/2020 kết luận 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, màu sơn: Đỏ, biển số 75G1-139.71 giá trị 15.000.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH125i, biển số 75H1- 470.68 giá trị 55.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại: Xe mô tô biển số 75H1-470.68 cùng các giấy tờ đã tạm giữ cho anh Nguyễn Quang N; trả lại xe mô tô biển số 75G1-139.71 và thẻ khách hàng ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) chi nhánh Nam sông Hương cho chị Nguyễn Thị Xuân H. Anh N và chị H không có yêu cầu gì thêm.
Về trách nhiệm dân sự: Võ Văn Q đã bồi thường cho anh Nguyễn Đăng S 20.000.000 đồng như yêu cầu. Chị H, anh S có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Q.
Tại cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số 103/CT-VKS-HS ngày 12/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế truy tố Võ Văn Q về tội “Trộm cắp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Võ Văn Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”.
Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam là 02 tháng 23 ngày (từ ngày 07/01/2021 đến ngày 30/3/2021).
Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại: Xe mô tô biển số 75H1-470.68 cùng các giấy tờ đã tạm giữ cho anh Nguyễn Quang N; trả lại xe mô tô biển số 75G1-139.71 và thẻ khách hàng ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) chi nhánh Nam sông Hương cho chị Nguyễn Thị Xuân H. Anh N và chị H không có yêu cầu gì thêm, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Đối với giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Văn Q (bản sao) là tài liệu liên quan đến vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường lại tiền cầm cố xe cho anh Nguyễn Đăng S, không có ai yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H; bị cáo nói lời nói sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo phù với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 13/12/2020, tại quán internet ở số 123 NSC, phường VD, thành phố H, Võ Văn Q đã lừa đảo chiếm đoạt của anh Nguyễn Quang N 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH 125i biển số 75H1-470.68 trị giá 55.000.000 đồng (Năm mươi lăm triệu đồng). Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, tại số 51 LH, phường VD, thành phố H, Võ Văn Q tiếp tục trộm cắp của chị Nguyễn Thị Xuân H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, biển số 75G1-139.71 trị giá 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng). Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173, điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng số 103/CT-VKS-HS ngày 12/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác và hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường và bất chấp pháp luật, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh xã hội tại địa phương. Do vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử tại phiên tòa hôm nay để áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4] Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng: Tại thời điểm phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bố bị cáo vừa mới qua đời. Trước khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình đã bồi thường đủ số tiền cầm cố xe cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị hại trong vụ trộm cắp tài sản đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần áp dụng điều 54 Bộ luật hình sự để xem xét xử dưới khung hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại tài sản cho các bị hại, không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Văn Q (Bản sao) là tài liệu liên quan đến vụ án cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã nhận đủ tiền bồi thường theo yêu cầu, không ai có yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/ Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Võ Văn Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.
sự.
2/Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Võ Văn Q 06 (sáu) tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam là 02 tháng 23 ngày (từ ngày 07/01/2021 đến ngày 30/3/2021).
3/Về xử lý vật chứng: Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án bản sao giấy chứng minh nhân dân họ và tên Võ Văn Q.
4/Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo Võ Văn Q phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5/Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 103/2021/HSST ngày 27/05/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 103/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về