Bản án 103/2021/DSST ngày 17/09/2021 về kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 103/2021/DSST NGÀY 17/09/2021 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 17/9/2021 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 128/2021/TLST-DS, ngày 18/3/2021, về việc “Kiện tranh chấp HĐ vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2021/QĐST-DS ngày 13/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 126/2021/QĐST- DS ngày 01/9/2021 giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam. Địa chỉ: Số 35 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức Tú – Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Văn Thanh Cường – Giám đốc chi nhánh BIDV Bắc Đăk Lăk.

Ông Cường ủy quyền lại cho ông Hoàng Văn Khoa – Phó giám đốc phòng giao dịch Ea H’Leo. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Số 546 đường Giải Phóng, thị trấn Ea Đrăng, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Ông Đinh Xuâm L, sinh năm 1982 và bà Đặng Thị Ngh, sinh năm 1987.

Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Địa chỉ: Thôn 6, xã R, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 01/11/2019 ông Đinh Xuân L và bà Đặng Thị Ngh ký HĐ tín dụng thứ nhất vay tại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền là 250.000.000 đồng và ký HĐ tín dụng thứ hai vay tại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền là 210.000.000 đồng, tổng cộng số tiền ông L, bà Ngh vay là 460.000.000 đồng.

Tại HĐ thế chấp ông L, bà Ngh đã thế chấp 02 quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 789791 và số BX 789792 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 10/4/2015 cho hộ ông Đinh Xuân L và bà Đặng Thị Ngh.

Để đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng và không bị ảnh hưởng xấu bởi việc mất khả năng trả nợ của bên đi vay. Vì ông L, bà Ngh vi phạm thời hạn trả nợ, nên Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam đề nghị ông L, bà Ngh phải có nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền nợ nói trên là 584.228.147 đồng (đã khấu trừ 6.435.781 đồng tiền lãi ông L, bà Ngh đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 460.000.000 đồng, lãi trong hạn 54.137.918 đồng, lãi quá hạn 70.778.671 đồng, lãi phạt 5.747.339 đồng (lãi tạm tính đến ngày 17/9/2021.

Trưng hợp ông L, bà Ngh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị Tòa án xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo thu hồi nợ.

Ngoài ra, không có yêu cầu nào khác.

Quá trình điều tra, xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ ông Đinh Xuân Lam và bà Đặng Thị Nghiên là bị đơn: Cố tình lẩn tránh, không hợp tác nên không ghi nhận được ý kiến của ông L, bà Ngh và ông L, bà Ngh cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào liên quan đến vụ án cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các đương sự do chủ tọa phiên tòa đã công bố tại phiên tòa thể hiện việc Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam khởi kiện yêu cầu ông L, bà Ngh trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 460.000.000 đồng tiền nợ gốc và lãi suất phát sinh theo hợp đồng là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, 466 Bộ luật dân sự, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam khởi kiện ông L, bà Ngh tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết về tranh chấp HĐ vay tài sản là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập ông L, bà Ngh là bị đơn đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông L, bà Ngh vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi ông L, bà Ngh cư trú. Theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và căn cứ khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự thì được coi là bị đơn cố tình giấu địa chỉ. Căn khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt. Sau khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng đã cung cấp 02 hợp đồng tín dụng số 01/2019/13207988/HĐTD, số 02/2019/13207988/HĐTD ngày 01/11/2019 và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất số 01/2017/10224801/HĐBĐ ngày 13/9/2017 thể hiện việc ông L, bà Ngh vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền là 460.000.000 đồng, mục đích tiêu dùng và sửa nhà.

Mặc dù không ghi nhận được ý kiến của ông L, bà Ngh về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam. Tuy nhiên, tại Kết luận giám định số: 119/KLGĐ-PC09 ngày 27/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ ký, chữ viết mang tên Đặng Thị Ngh trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2, A3 so với chữ ký, chữ viết đứng tên Đặng Thị Ngh trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 là do cùng một người ký và viết ra.

Như vậy, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng cho vay” được quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự, nên có đủ căn cứ pháp lý xác định ngày 01/11/2019 ông L, bà Ngh ký 02 hợp đồng cho vay, vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam với số tiền là 460.000.000 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng, đến kỳ hạn trả nợ nhưng ông L, bà Ngh không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên vay được quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự và vi phạm trong Hợp đồng tín dụng. Từ những phân tích trên, xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam là có căn cứ, nên cần chấp nhận, buộc ông L, bà Ngh phải trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền hiện còn nợ là 584.228.147 đồng (đã khấu trừ 6.435.781 đồng tiền lãi ông L, bà Ngh đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 460.000.000 đồng, lãi trong hạn 54.137.918 đồng, lãi quá hạn 70.778.671 đồng, lãi phạt 5.747.339 đồng (lãi tạm tính đến ngày 17/9/2021. Ông L, bà Ngh phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng kể từ ngày 18/9/2021 cho đến khi ông L, bà Ngh trả hết nợ cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.

Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, ông L, bà Ngh ký “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất” số 01/2017/10224801/HĐBĐ ngày 13/9/2017 thế chấp 02 quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 789791 và số BX 789792 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 10/4/2015 cho hộ ông Đinh Xuân L và bà Đặng Thị Ngh và toàn bộ tài sản gắn liền trên đất. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất xác lập tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật về nội dung cũng như hình thức theo quy định tại Điều 317; Điều 318; Điều 319; Điều 325 Bộ luật dân sự; điểm a khoản 1 Điều 4; khoản 1 Điều 5; Điều 6; khoản 3 Điều 9; khoản 2 Điều 39 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về việc đăng ký biện pháp bảo đảm. Do vậy, thuộc trường hợp những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Hợp đồng thế chấp được xác lập phù hợp với quy định của pháp luật, nên các tài sản thế chấp được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khi ông L, bà Ngh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Nếu ông L, bà Ngh thanh toán đủ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam thì phía Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có nghĩa vụ giải chấp tài sản thế chấp.

[3]. Về án phí và chi phí tố tụng khác: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam được chấp nhận, nên buộc ông L, bà Ngh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 317; Điều 318; Điều 319; Điều 325; Điều 463 và khoản 1, 3, 5 Điều 466 Bộ luật dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.

Buộc ông Đinh Xuân L và bà Đặng Thị Ngh trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền 584.228.147 đồng (đã khấu trừ 6.435.781 đồng tiền lãi ông L, bà Ngh đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 460.000.000 đồng, lãi trong hạn 54.137.918 đồng, lãi quá hạn 70.778.671 đồng, lãi phạt 5.747.339 đồng (lãi tạm tính đến ngày 17/9/2021.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông L, bà Ngh còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông L, bà Ngh phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp ông L, bà Ngh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có quyền yêu cầu Chi cục THADS huyện Ea H’Leo xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BX 789791 và số BX 789792 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 10/4/2015 cho hộ ông Đinh Xuân L và bà Đặng Thị Ngh để thu hồi nợ.

Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 155; khoản 2 Điều 156; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 158; Điều 159; khoản 2 Điều 161; khoản 1 Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Đinh Xuân L và bà Đặng Thị Ngh phải chịu 5.670.000 đồng tiền chi phí giám định và 2.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 5.670.000 đồng tiền chí phí giám định và 2.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định đã nộp sau khi thu được từ ông L, bà Ngh.

Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 6 Điều 19; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Ông L, bà Ngh phải chịu 27.369.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 12.361.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2020/0000173 ngày 15/3/2021.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 103/2021/DSST ngày 17/09/2021 về kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:103/2021/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;