Bản án 103/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU – TỈNH TÂY NINH

 BẢN ÁN 103/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tại Hội trường UBND xã Bàu Đ, huyện G, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:104/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc N (L), sinh năm: 1990, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký NKTT và nơi cư trú hiện nay: khu phố N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Minh T (chết) và bà Nguyễn Thị Kim X; Sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc H; Con chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 10-02-2020 bị Công an thị trấn G xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy: Nhân thân: Ngày 24-8-2011, bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 09 tháng tù về tội “ Gây rối trật tự công cộng”, chấp hành án xong vào ngày 23-12-2012. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 26-6-2020, đến ngày 05- 7-2020 bị tạm giam cho đến nay. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 26-6-2020, bị cáo N đến khu vực xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, mua 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng của người tên T không rõ lý lịch đem về nhà của bị cáo tại khu phố N, thị trấn G, cất giấu với mục đích sử dụng. Đến 15 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo bị lực lương Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tây Ninh phối hợp với Công an huyện G kiểm tra bắt quả tang, thu giữ vật chứng 01 bịch nylon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (ký hiệu M) và cùng một số vật chứng có liên quan.

Tại Kết luận giám định số 960 ngày 30-6-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng (Ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,4662 gam.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Có bảng thống kê kèm theo.

Về kê biên tài sản: Do bị cáo không có tài sản nên Cơ quan điều tra không kê biên.

Tại bản Cáo trạng số: 106/CT-VKSGD ngày 01 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng cũng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc N (L) mức án từ 03 năm đến 04 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Khoảng 15 giờ ngày 26-6-2020, bị cáo N đến khu vực xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, mua 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng của người tên T không rõ lý lịch đem về nhà của bị cáo tại khu phố N, thị trấn G, cất giấu với mục đích sử dụng. Khoản 15 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo bị lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tây Ninh phối hợp với Công an huyện G kiểm tra bắt quả tang và thu giữ chất ma túy có tên gọi Methamphetamine, khối lượng 0,4662 gam. Do đó có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân bị cáo biết việc tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo không tuân thủ. Hành vi của bị cáo là trái pháp luật, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách Nệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

[4] Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Đối với 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 960/KL-KTHS có dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tây Ninh là chất ma túy (Methamphetamine) nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO 105, màu trắng, số IMEi:

964214035659756 của bị cáo dùng liên lạc để mua ma túy sử dụng nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 bình nhựa màu trắng có nắp màu trắng bên trên có gắng ống thủy tinh và một ống nhựa màu trắng; 01 ống thủy tinh có đầu tròn; 01 hộp giấy bên ngoài có quấn băng keo màu đen; 01 cây kéo bằng kim loại; 01 hộp quẹt ga; 05 bịch ny lon màu trắng là vật chứng không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 200.000 đồng là tiền của bị cáo dùng để mua ma túy sử dụng nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc N (L) phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc N (L) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt Nguyễn Ngọc N (L) 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26-6-2020.

2. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 960/KL-KTHS có dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tây Ninh là chất ma túy (Methamphetamine); 01 bình nhựa màu trắng có nắp màu trắng bên trên có gắng ống thủy tinh và một ống nhựa màu trắng; 01 ống thủy tinh có đầu tròn; 01 hộp giấy bên ngoài có quấn băng keo màu đen; 01 cây kéo bằng kim loại; 01 hộp quẹt ga; 05 bịch ny lon màu trắng.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 200.000 đồng và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO 105, màu trắng, số IMEi: 964214035659756.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc N (L) phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

330
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 103/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;