TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 103/2020/HSST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 93/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2020/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đinh Văn T, tên gọi khác: không có; sinh ngày 25-7-1979, tại ĐT, QN. Nơi cư trú: khu KT, phường KS, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn T và bà Nguyễn Thị Th (đã chết); gia đình có 03 anh em, bị cáo là thứ nhất; vợ: Trần Thị Ng, sinh năm 1982 (đã ly hôn); có 02 con, lớn sinh năm 2000, bé sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 30-8-2006, chấp hành xong hình phạt về địa phương (đã được xóa án tích); Năm 2008, UBND huyện (nay là thị xã) Đông Triều ra Quyết định cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội Vũ Oai. Ngày 10-5-2010, hoàn thành chương trình cai nghiện bắt buộc; Năm 2011, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Ngày 27-02-2012, chấp hành xong hình phạt về địa phương (đã được xóa án tích). Bị cáo bị bắt quả tang ngày 27-6-2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Đinh Văn T; sinh năm: 1956; nơi cư trú: Khu VP, phường MK, thị xã ĐT, tỉnh QN. Vắng mặt.
* Người chứng kiến:
1. Anh Trương Đức T; sinh năm 1973; nơi cư trú: KP 2, phường MK, thị xã ĐT, tỉnh QN. Vắng mặt
2. Anh Phan Công V; sinh năm 1961; nơi cư trú: Tổ X, khu VH, phường MK, thị xã ĐT, tỉnh QN. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27-6-2020, Công an thị xã ĐT phối hợp với Công an phường MK thị xã ĐT tiến hành tuần tra, kiểm soát tại khu VH, phường MK, thị xã ĐT, thấy Đinh Văn T đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14T7 - 0799 có biểu hiện nghi vấn, nên tổ công tác ra tín hiệu dừng xe để kiểm tra. Do hoảng sợ nên xe mô tô do T điều khiển đổ, ngã ra đường, đồng thời tay trái của T thả 01 (một) gói giấy màu trắng bên trong có 02 (hai) gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng (Ký hiệu M1, M2) xuống nền đường thì bị phát hiện, bắt quả tang.
Tại Bản kết luận giám định số 855/KLGĐ ngày 01-7-2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Đinh Văn T ký hiệu M1, M2 là ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng 0,578g (không phẩy năm bẩy tám gam).
(Heroine nằm trong Danh mục IA, STT: 09; Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất).
Tại Cáo trạng số: 102/CT- VKS - ĐT ngày 19-10-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 27-6-2020.
- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên đề nghị HĐXX không áp dụng.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 855/KLGĐ ngày 01-7-2020 và 856/KLGĐ ngày 02-7-2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn.
Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Đinh Văn T đều khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, khoảng 08 giờ 30 phút ngày 27-6-2020, T một mình điều khiển xe mô tô sang khu vực phường MT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương gặp và thỏa thuận mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) 02 (hai) gói ma túy loại Heroine với giá 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) được bọc trong 01 (một) tờ giấy màu trắng. Sau khi mua được ma tuý, T cầm gói giấy chứa 02 (hai) gói ma túy trên tay trái, còn tay phải điều khiển xe mô tô đi về phường MK, thị xã ĐT. Khi đi đến khu vực đường băng tải, thuộc khu, thì bị Công an dừng xe để kiểm tra. T hoảng sợ nên đã bị ngã ra đường và làm rơi gói giấy bên trong có 02 (hai) gói ma túy ra đường, thì bị Công an phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Người chứng kiến anh Phan Quang V và anh Trương Đức T vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27-6-2020, các anh được Cơ quan công an mời chứng kiến việc bắt quả tang nam thanh niên đi xe máy BKS 14T7 - 0799 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Nam thanh niên khai tên là Đinh Văn T, sinh năm 1979; nơi cư trú: khu KT, phường KS, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, 02 gói giấy bạc bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma túy heroin Tuấn mua về để sử dụng.
Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, với Biên bản khám nghiệm hiện trường do Công an thị xã ĐT lập hồi 12 giờ 40 phút ngày 27-6-2020 tại khu VH, phường MK, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 27-6-2020, tại đường dân sinh, thuộc khu VH, phường MK, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, Đinh Văn Tuấn có hành vi tàng trữ trái phép 0,578g (không phẩy năm bẩy tám gam) chất ma túy, loại Heroine, nhằm mục đích sử dụng, thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Về hình phạt:
[3.1] Hình phạt chính:
Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
..."1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà h ng nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR – 11 có hối lượng từ 0,1gam đến dưới 05gam.”
[3.2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo là người trưởng thành, có khả năng nhận thức được tác hại của ma túy, biết hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội.
[3.3] Xét về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Năm 2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999. Ngày 30-8-2006, chấp hành xong hình phạt về địa phương (đã được xóa án tích); Năm 2008, UBND huyện (nay là thị xã) ĐT ra Quyết định cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội Vũ Oai. Ngày 10-5-2010, hoàn thành chương trình cai nghiện bắt buộc; Năm 2011, Tòa án nhân dân huyện ĐA, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Ngày 27- 02-2012, chấp hành xong hình phạt về địa phương (đã được xóa án tích). Bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà còn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Điều đó thể hiện tính coi thường pháp luật của bị cáo.
[3.4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nên không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Từ những đánh giá, phân tích nêu trên, căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có tài sản riêng, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Số ma túy loại Heroine, thu giữ của bị cáo là vật Nhà nước cấm tàng trữ và mẫu so sánh thu từ niêm mạc miệng của Đinh Văn Tkhông có giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy;
[6] Những tình tiết khác trong vụ án:
- Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Đinh Văn T, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.
- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 14T7 - 0799 là tài sản hợp pháp của ông Đinh Văn T1 (bố đẻ của Đinh Văn T), ông T1 không biết T sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy, cũng như 02 (hai) chiếc điện thoại di động thu giữ của T không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 17/8/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông T1.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Bị cáo Đinh Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đinh Văn T 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 27-6-2020.
3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 855/KLGĐ ngày 01-7-2020 và 856/KLGĐ ngày 02-7-2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn.
(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21 tháng 10 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).
4. Về án phí: Bị cáo Đinh Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền háng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 103/2020/HSST ngày 17/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 103/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về