Bản án 103/2020/HS-ST ngày 14/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BT, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 103/2020/HS-ST NGÀY 14/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 14 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 111/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 105/2020/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

HUỲNH HỮU N, sinh năm: 1993 tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp B, xã BT, huyện GT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Huỳnh Văn H, sinh năm 1965, mẹ: Trần Thị C, sinh năm 1965; Có vợ: Ngô Thị Cẩm T, sinh năm 1994; Con: có 01 con sinh năm 2018; Tiền án: không; Tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/10/2020 đến ngày 05/11/2020 được trả tự do và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay.(Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

- Đỗ Minh T, sinh năm 1989;

Nơi cư trú: Ấp LT, xã HT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh.

- Nguyễn Minh T, sinh năm 1992;

Nơi cư trú: Tổ M, ấp LT, xã HT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh.

- Võ Huỳnh Long Q, sinh năm 1992;

Nơi cư trú: Ấp N, xã Phạm Văn C, huyện CC, Thành Phố Hồ Chí Minh.

- Trần Thị Vạn N, sinh năm 2003;

Nơi cư trú: Ấp NM, xã BT, huyện KL, tỉnh Kiên Giang.

- Lê Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1998;

Nơi cư trú: Thôn 2, xã NT, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước.

- Nguyễn Thị Bích D, sinh năm 1998;

Nơi cư trú: Ấp QT, xã AL, huyện TA, tỉnh Phú Yên.

- Nguyễn Minh T, sinh năm 1990;

Nơi cư trú: Thôn TAB, xã PV, huyện ĐP, tỉnh Quãng Ngãi - Hồ Duy A, sinh năm 1996;

Nơi cư trú: Ấp TH, xã T, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long.

* Người chứng kiến:

- Hồ Văn N, sinh năm 1990;

Nơi cư trú: Xóm 2, thôn 1, xã BR, huyện TL, tỉnh Bình Thuận.

- Lư Hoa T, sinh năm 1965;

Nơi cư trú: Số 215, khu phố BN, phường S, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Nguyễn Thái N, sinh năm 1995;

Nơi cư trú: Số 427C, khu phố BT, phường S, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.

- Lê Thị Tuyết M, sinh năm 1995;

Nơi cư trú: Số 221, ấp S, xã ML, huyện CT, tỉnh Bình Phước.

(Người làm chứng bà Lê Nguyễn Ngọc H có mặt, còn lại tất cả người làm chứng, người chứng kiến vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 03 giờ 20 phút ngày 30/10/2020, Đội kiểm tra liên ngành 814-817 Công an thành phố BT tiến hành kiểm tra hành chính cơ sở kinh doanh Karaoke Thiên Phát ở số 6A, khu phố Bình Khởi, phường 6, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. Qua kiểm tra tại phòng VIP2 lực lượng kiểm tra liên ngành phát hiện có nhiều dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy và có 07 đối tượng có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy trong đó có Huỳnh Hữu N nên thông báo cho lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố BT đến giải quyết. Tiến hành kiểm tra phòng VIP2, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố BT phát hiện tại vị trí chổ ngồi của N có 01 túi nylon màu trắng hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch ngang màu đỏ, bên trong túi có chứa chất màu xanh, 01 túi nylon màu trắng hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép bên trong túi có chứa tinh thể màu trắng và N khai là ma túy loại thuốc lắc và Ketamine của N mang vào để sử dụng nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N và thu giữ tang vật.

Vật chứng thu giữ: 01 dĩa bằng sành màu trắng; 01 thẻ bằng nhựa cứng, trên thẻ có chữ GUCCI; 01 tờ tiền Polime mệnh giá 20.000 đồng được cuộn tròn; 01 hột quẹt gas màu đỏ; 01 túi nylon màu trắng hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch ngang màu đỏ, bên trong túi có chứa chất màu xanh nghi là ma túy (sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1); 01 túi nylon màu trắng hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép bên trong túi có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2); Cả hai phong bì ký hiệu A1, A2 có chữ ký và ghi tên Nguyễn Hải Đăng K, Huỳnh Hữu N, Nguyễn Thái N, Lư Hoa T, Nguyễn Hữu K, Lê Quang V và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường 6, thành phố BT.

Đồng thời, qua làm việc N còn khai nhận tại phòng VIP6 N còn để 01 gói ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố BT tiến hành khám xét khẩn cấp Phòng VIP6 của quán Karaoke Thiên Phát. Qua khám xét lực lượng Công an thu giữ:

01 túi nylon màu trắng được hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu đỏ, bên trong có 03 viên nén màu xanh nghi là ma túy (sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì , ký hiệu K1 có chữ ký và ghi tên Huỳnh Hữu N, Nguyễn Minh T, Hồ Duy A, Hồ Văn N, Nguyễn Thái N, Lê Quang V, Phan Nghĩa T và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường 6, thành phố BT); 01 dĩa bằng sành màu trắng; 01 thẻ Card màu đen, có chữ VIP; 01 tờ tiền Polime mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn;

02 hột quẹt gas; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Hữu N; 01 giỏ xách màu nâu hiệu GUCCI; 01 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 túi nylon màu trắng, hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép, bên trong rỗng. Ngoài ra, lực lượng Công an còn thu giữ của N: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu SamSung kèm sim số 0394959533; 01 xe mô tô, loại Exciter, biển số 71B1-63159; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 066555; Tiền Việt Nam: 1.200.000 đồng.

Qua làm việc N khai nhận: Số ma túy mà lực lượng Công an thu giữ trong Phòng VIP2 và VIP6 là của N. N có được là do: Vào khoảng 18 giờ ngày 29/10/2020, N cùng với Nguyễn Minh T đi đến phòng VIP6, quán Karaoke Thiên Phát để chơi. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, N điện thoại cho P (không rõ tên thật và địa chỉ) hỏi mua 01 túi ma túy loại Ketamine và 03 viên thuốc lắc với giá 3.400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N cùng với T sử dụng hết gói ma túy loại Ketamine, còn lại 03 viên thuốc lắc N để lại gần vị trí mình ngồi. Đến khoảng 02 giờ ngày 30/10/2020, N gặp Đỗ Minh T đang ở phòng VIP2 nên N sang phòng VIP2 chơi. Tại đây, N tiếp tục điện thoại cho P hỏi mua 01 túi ma túy loại Ketamine và 03 viên thuốc lắc với giá 3.400.000 đồng để tiếp tục sử dụng nhưng chưa sử dụng hết thì bị lực lượng Công an phát hiện và thu giữ như trên.

Theo Kết luận giám định số 119/2020/GĐMT ngày 02/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận:

- Chất màu xanh đựng trong 01 túi nylon được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 1,5144 gam;

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nylon được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 1,5234 gam;

- 03 viên nén màu xanh đựng trong 01 túi nylon được niêm phong trong phong bì ký hiệu K1 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng 1,3978 gam;

Tại bản cáo trạng số 114/CT-VKSTPBT ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Huỳnh Hữu N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 2,9124 gam chất ma túy loại MDMA và 1,5234 gam ma túy loại Ketamine để sử dụng, thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình; Về nhân thân bị cáo không tiền án, tiền sự nhưng đã từng bị xử phạt hành chính 1.500.000đồng về hành vi đánh bạc. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo đã tự khai ra thêm hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội tự thú cho bị cáo; Sau khi phạm tội bị cáo thật thà khai báo, năn năn hối cải; Ngoài ra, gia đình bị cáo có công với đất nước, bị cáo có con còn nhỏ nên đề nghị cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Huỳnh Hữu N từ 01 năm 06 tháng đến 02năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt bổ sung đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo;

Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định và các công cụ dùng để sử dụng ma túy; Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô, nhãn hiệu AirBlade, biển số 71B2-970.46 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 066555; Tiền Việt Nam 1.200.000đồng;

01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Minh Nhứt; 01 giỏ xách màu nâu hiệu Gucci; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung kèm sim số 039495953; 01 tờ tiền polime mệnh giá 20.000đồng được cuộn tròn; 01 tờ tiền polime mệnh giá 10.000đồng được cuộn tròn.

Bị cáo Huỳnh Hữu N khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã xác định, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố BT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, người làm chứng và người chứng kiến vắng mặt, tuy nhiên họ đã có lời khai rõ ràng trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ cũng không trở ngại cho việc xét xử, cũng không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng, người chứng kiến theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Bị cáo Huỳnh Hữu N có lời khai tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với kết luận giám định 119/2020/GĐMT ngày 02/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 03 giờ 20 phút ngày 30/10/2020, tại phòng VIP2 và VIP6 của quán Karaoke Thiên Phát ở số 6A, khu phố Bình Khởi, phường 6, thành phố BT, bị cáo Huỳnh Hữu N có hành vi tàng trữ trái phép 2,9124 gam ma túy, loại MDMA và 1,5234 gam ma túy, loại Ketamine để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

[4] Bị cáo Huỳnh Hữu N là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã thực hiện hành vi cất giữ ma túy một cách trái pháp luật với lỗi cố ý, bị cáo tàng trữ trái phép chất 2,9124 gam ma túy loại MDMA và 1,5234 gam ma túy loại Ketamine, bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về phòng ngừa, ngăn chặn và kiểm soát tệ nạn ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân, đồng thời có nguy cơ phát sinh các tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, Bản cáo trạng số 114/CT-VKSTPBT ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố BT, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Huỳnh Hữu N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng luật định.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Về nhân thân, mặc dù bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng năm 2018 đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi bị bắt quả tang, bị cáo tự khai ra thêm hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, gia đình bị cáo có công với đất nước, có ông Nguyễn Văn O được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất vì có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông Nguyễn Văn Q được tặng thưởng huân chương độc lập đã có đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc nên giảm một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Chúng ta biết tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội không những gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi giống con người, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Chính vì vậy, để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn ma túy thì cần phải xử lý thật nghiêm đối với các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển…trái phép chất ma túy theo quy định của pháp luật. Do đó, căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra cũng như nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết để nhằm cải tạo giáo dục bị cáo cũng như để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh bị cáo khó khăn nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Lời phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

Hội đồng xét xử xét thấy, chất ma túy còn lại sau giám định đựng trong phong bì số 119/2020 có chữ ký và ghi tên Phan Trung T, Nguyễn Ngọc M, Nguyễn Hải Đ và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;

Đối với các vật chứng là dụng cụ bị cáo dùng để sử dụng ma túy nên tịch thu tiêu hủy gồm: 02 dĩa bằng sành màu trắng; 01 thẻ bằng nhựa cứng, trên thẻ có chữ GUCCI;

03 hột quẹt ga; 01 thẻ Card màu đen, có chữ VIP; 01 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 túi nylon màu trắng, hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép, bên trong rỗng;

Đối với các vật chứng gồm: 01 xe mô tô, loại Exciter, biển số 71B1-63159, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 06655; 1.200.000đồng; 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Minh N; 01 giỏ xách màu nâu hiệu GUCCI, là tài sản của bị cáo không liên quan vụ án nên trả lại cho bị cáo.

Đối với vật chứng là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung kèm sim số 039495953, bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy sử dụng nên tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

Đối với vật chứng gồm 01 (một) tờ tiền polime mệnh giá 20.000(hai mươi ngàn)đồng được cuộn tròn, 01(một) tờ tiền polime mệnh giá 10.000(mười ngàn)đồng, được sử dụng làm công cụ sử dụng ma túy thu được khi bị bắt quả tang, không xác định chủ sở hữu nên tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[9] Đối với đối tượng tên P do không rõ họ, tên thật và địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau là phù hợp.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải nộp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Hữu N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 , khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo: Huỳnh Hữu N: 01(một) năm 06(sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được trừ đi thời hạn bị cáo Huỳnh Hữu N bị tạm giữ từ ngày 30/10/2020 đến ngày 05/11/2020 là 06 ngày.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

2.1. Tịch thu tiêu hủy:

- Chất ma túy còn lại sau giám định đựng trong phong bì số 119/2020 có chữ ký và ghi tên Phan Trung T, Nguyễn Ngọc M, Nguyễn Hải Đ và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre;

- 02(hai) dĩa bằng sành màu trắng; 01(một) thẻ bằng nhựa cứng, trên thẻ có chữ GUCCI; 03(ba) hột quẹt ga; 01(một) thẻ Card màu đen, có chữ VIP; 01(một) đoạn ống nhựa màu trắng; 01(một) túi nylon màu trắng, hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép, bên trong rỗng;

2.2. Trả lại cho bị cáo: 01(một) xe mô tô, loại Exciter, biển số 71B1-63159, 01(một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 066555; 01(một) giỏ xách màu nâu hiệu GUCCI và 1.200.000(một triệu hai trăm ngàn)đồng; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Huỳnh Minh N;

2.3. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung kèm sim số 039495953; 01 (một) tờ tiền polime mệnh giá 20.000(hai mươi ngàn)đồng được cuộn tròn, 01(một) tờ tiền polime mệnh giá 10.000(mười ngàn)đồng;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/12/2020, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố BT quản lý).

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Huỳnh Hữu N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 103/2020/HS-ST ngày 14/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:103/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;