TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 103/2019/HSST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 108/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115 /2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Quang L, tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh ngày 09/10/1974 tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Nơi cư trú: Tổ 3, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Nguyễn Quang K; Con bà: Nguyễn Thị L (đều đã chết). Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo Nguyễn Quang L bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/9/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 11/9/2019 L lấy 02 (hai) túi ma túy cho vào túi quần lửng bên trái và 02 (hai) túi cho vào ví tiền để ở túi quần sau bên phải để sử dụng. Khi L đang đứng trước cửa nhà thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lào Cai kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L tự khai nhận bản thân đang cất giấu ma túy trên người và tự lấy từ túi quần lửng bên trái L đang mặc ra giao nộp tổ công tác 02 (hai) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng và lấy từ ví tiền để ở túi quần sau bên phải ra giao nộp 02 (hai) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. L khai nhận 04 túi này là ma túy đá của L, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân. Ngay lúc đó tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 05 giờ 45 phút ngày 11/9/2019 và niêm phong vật chứng đúng quy định. Ngoài ra còn tạm giữ của L số tiền 1.000.000 đồng, 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang L, 01 ví giả da màu đen (đã cũ) và 01 điện thoại Samsung.
Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai thi hành lệnh khám xét nơi ở của bị cáo tại số nhà 002, tổ 3, phường C, thành phố L. Quá trình khám xét phát hiện, thu giữ bên trong hộp hình chữ nhật màu đen để trên bàn trong phòng ngủ tầng hai 02 (hai) túi nilon màu trắng, bên trong túi nilon thứ nhất chứa 27 (hai mươi bẩy) túi nilon nhỏ, bên trong túi nilon thứ hai chứa 03 (ba) túi nilon nhỏ. Bên trong 30 túi nilon này đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. L khai đây đều là các túi ma túy đá của L, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra còn tạm giữ của Nguyễn Quang L 01 cân điện tử, 01 túi nilon bên trong có nhiều vỏ túi nilon và 01 hộp hình chữ nhật.
Về nguồn gốc số ma túy Nguyễn Quang L khai nhận: Ngày 27/8/2019, Nguyễn Quang L gặp một người nam giới tên Hùng (bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) tại quán ăn sáng của L ở số nhà 002, đường Kim Đồng, tổ 3, phường C, thành phố L. Sau khi nói chuyện, trao đổi với Hùng, L hỏi “anh có biết ở đâu có hàng bán không, lấy cho em ít để em chơi”, L và Hùng đều hiểu hàng có nghĩa là ma túy. Hùng nói “có, chú lấy bao nhiêu”, L nói “em lấy 2.000.000 đồng”, Hùng liền lấy ra từ túi quần 01 (một) túi nilon bên trong đựng ma túy đá đưa cho L, L cầm ma túy và đưa cho Hùng 2.000.000 đồng. Sau đó, L cầm số ma túy vừa mua được đi vào nhà và lên phòng ngủ của L ở tầng 2 và chia nhỏ số ma túy thành nhiều túi nhỏ cất giấu vào trong một chiếc hộp chữ nhật màu đen và để ở trên bàn kê trong phòng với mục đích để sử dụng cho bản thân Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định lập cùng ngày giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định. Phong bì thứ nhất: 02 (hai) gói giấy ký hiệu bên ngoài lần lượt là 01 và 02. Gói giấy ký hiệu 01, bên trong chứa 02 (hai) gói nilon, bên trong mỗi gói đều chứa các hạt tinh thể màu trắng, có khối lượng 1,32 gam (ký hiệu mẫu M1). Gói giấy ký hiệu 02 bên trong chứa 02 (hai) gói nilon, bên trong mỗi gói đều chứa các hạt tinh thể màu trắng, có khối lượng 1,81 gam (ký hiệu mẫu M2). Phong bì thứ hai: bên trong chứa 02 (hai) túi nilon; túi thứ nhất: bên trong chứa 27 (hai mươi bẩy) gói nilon nhỏ, bên trong mỗi gói nilon này đều chứa các hạt tinh thể màu trắng, có khối lượng 6,70 gam (ký hiệu mẫu M3); túi thứ hai: bên trong chứa 03 (ba) gói nilon nhỏ, bên trong mỗi gói nilon này đều chứa các hạt tinh thể màu trắng, có khối lượng 9,22 gam (ký hiệu mẫu M4). Tổng khối lượng của các mẫu M1, M2, M3, M4 là 19,05 (mười chín phẩy không năm) gam. Trích 0,09 gam ở mẫu M1, 0,10 gam ở mẫu M2, 0,49 gam ở mẫu M3 và 0,22 gam ở mẫu M4 để tiến hành giám định. Số vật chứng còn lại ở lần lượt các mẫu còn lại là 1,23; 1,71; 6,21 và 9,00 gam được tái niêm phong vào bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lào Cai hoàn trả cơ quan trưng cầu.
Tại kết luận giám định số 203/GĐMT ngày 12/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 19,05 (mười chín phẩy không năm) gam các hạt tinh thể màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Methamphetamine.
Cáo trạng số 109/CT-VKSTPLC ngày 04 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Quang L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm g Khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Quang L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang L từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 18,15 (mười tám phẩy mười lăm) gam ma túy Methamphetamine được tái niêm phong đúng quy định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai ; Đối với 1.000.000 đồng, 01 chứng minh nhân dân, 01 điện thoại di động là của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần xem xét trả lại cho bị cáo; những đồ vật còn lại liên quan đến vụ án hoặc không còn giá trị cần tịch thu tiêu hủy. Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Quang L nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Quang L khai nhận. Ngày 27/8/2019, Nguyễn Quang L gặp một người nam giới tên Hùng (bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) tại quán ăn sáng của L ở số nhà 002, đường Kim Đồng, tổ 3, phường C, thành phố L L có mua của Hùng 01 (một) túi nilon bên trong đựng ma túy đá, L cầm ma túy và đưa cho Hùng 2.000.000 đồng. Sau đó, L cầm số ma túy vừa mua được đi vào nhà và lên phòng ngủ của L ở tầng 2 và chia nhỏ số ma túy thành nhiều túi nhỏ cất giấu vào trong một chiếc hộp chữ nhật màu đen và để ở trên bàn kê trong phòng với mục đích để sử dụng cho bản thân. Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 11/9/2019 L lấy 02 (hai) túi ma túy cho vào túi quần lửng bên trái và 02 (hai) túi cho vào ví tiền để ở túi quần sau bên phải để sử dụng. Khi L đang đứng trước cửa nhà thì bị tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Lào Cai kiểm tra. 02 (hai) túi nilon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lào Cai thi hành lệnh khám xét nơi ở của bị cáo tại số nhà 002, tổ 3, phường C, thành phố L. Quá trình khám xét phát hiện, thu giữ bên trong hộp hình chữ nhật màu đen để trên bàn trong phòng ngủ tầng hai 02 (hai) túi nilon màu trắng, bên trong túi nilon thứ nhất chứa 27 (hai mươi bẩy) túi nilon nhỏ, bên trong túi nilon thứ hai chứa 03 (ba) túi nilon nhỏ. Bên trong 30 túi nilon này đều chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. L khai đây đều là các túi ma túy đá của L, mục đích cất giấu để sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với bản kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận hành vi tàng trữ 19,05 gam ma túy Methamphetamine của bị cáo Nguyễn Quang L đã cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo là người có sức khỏe, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Nhận thức rõ pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép chất ma túy nhưng bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, thiếu rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật, để có ma túy sử dụng cho bản thân, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Lào Cai, vì vậy cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh trước pháp luật, có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Quang L không có tình tiết tăng năng. Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, bị cáo có bố đẻ ông Nguyễn Quang K được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự mà bị cáo được hưởng, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, căn cứ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng hành vi phạm tội của bị cáo cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án: Vật chứng còn lại 18,15 (mười tám phẩy mười lăm) gam ma túy Methamphetamine được tái niêm phong đúng quy định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt bì thư có ghi “vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Quang L có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện, thu giữ ngày 11 tháng 9 năm 2019 tại tổ 3, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai ”. Đây là vật nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với số tiền 1.000.000 đồng( một triệu đồng) của bị cáo được niêm phong trong bì thư gửi tại Kho bạc nhà nước thành phố Lào Cai theo biên bản giao nhận ngày 24/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố lào Cai và kho bạc nhà nước thành phố Lào Cai , 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang L, 01 ví giả da màu đen (đã cũ), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung. Đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án , xong xét thấy bị cáo còn phải thi hành khoản tiền án phí nên cần tiếp tục tạm giữ số tiền 200.000 đồng để đảm bảo công tác thi hành án , trả lại 800.000 đồng; 01 ví giả da màu đen đã cũ và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang L, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung cho bị cáo.
Đối với 01 cân điện tử, 01 túi nilon bên trong có nhiều vỏ túi nilon và 01 hộp hình chữ nhật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang L phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang L 05 (không năm) năm 09 (không chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ bị cáo 11/9/2019.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 18,15 (mười tám phẩy mười lăm) gam ma túy Methamphetamine được tái niêm phong đúng quy định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt bì thư có ghi “vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Quang L có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện, thu giữ ngày 11 tháng 9 năm 2019 tại tổ 3, phường C, thành phố L, tỉnh Lào Cai ” Tịch thu tiêu hủy 01 cân điện tử, 01 túi nilon bên trong có nhiều vỏ túi nilon và 01 hộp hình chữ nhật;
Tiếp tục tạm giữ số tiền 200.000vnđ của bị cáo trong tổng số tiền 1.000.000 đồng ( một triệu đồng) được niêm phong trong bì thư gửi tại Kho bạc nhà nước thành phố Lào Cai theo biên bản giao nhận ngày 24/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố lào Cai và kho bạc nhà nước thành phố Lào Cai. Trả lại 800.000 đồng; 01 ví giả da màu đen đã cũ và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang L, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung trả lại cho bị cáo.
(Vật chứng được thể hiện tại Quyết định chuyển vật chứng ngày 04/11/2019 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/11/2019)
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Quang L phải chịu 200.000vnđ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".
Bản án 103/2019/HSST ngày 22/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 103/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về